ĐÃ BIẾT VÔ THƯỜNG SAO CÒN PHIỀN NÃO

Đã biết vô thường sao còn phiền não

Đây là một câu hỏi nhưng gần như không có câu trả lời cho đa số những người tu học theo Phật Giáo. Câu trả lời chỉ đến với một số người trí khi lật lại vấn đề. Có phải biết các pháp vô thường thì chấm dứt phiền não không? Vậy tại sao những người tu học nói là đã biết vô thường nhưng họ vẫn than phiền không hết phiền não? Câu trả lời là tại vì, hiểu biết về Vô thường của những người đó “ĐANG CÓ VẤN ĐỀ”, chưa đúng với SỰ THẬT VÔ THƯỜNG nên còn phiền não. Vậy thì, biết các pháp VÔ THƯỜNG cho đến MỨC ĐỘ NHƯ THẾ NÀO thì mới chấm dứt phiền não? Để chấm dứt được Phiền não, chấm dứt được Khổ phải Tuệ tri vô thường, Tuệ tri sự nguy hiểm, Tuệ tri sự xuất ly.

Đã biết vô thường sao còn phiền não

1 – TUỆ TRI VÔ THƯỜNG

Phải nhận thức rằng, BIẾT các pháp ( Danh và Sắc ) là vô thường có hai loại : Biết vô thường không đúng với sự thật, do tưởng tượng ra gọi là Vô Minh hay Tà Tri kiến thuộc về Phàm phu, phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà Đạo và Biết vô thường đúng như thật gọi là Minh, là Tuệ tri, là Chánh Tri kiến thuộc về bậc Thánh, phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo.

A – Hiểu biết vô thường không đúng như thật cho nên vẫn phiền não:

– Một là: Hiểu biết của nhân loại các pháp VÔ THƯỜNG theo nghĩa là các pháp đang BIẾN ĐỔI từ cái này sang cái kia. Hạt gạo biến đổi thành hạt cơm, trẻ biến đổi thành già, thân thể biến đổi từ khoẻ sang bệnh, không khí từ lạnh sang nóng, mùa hạ sang thu, từ hoa sang trái, từ xanh sang chín, từ sống sang chết …vv. Theo nghĩa này thì sau khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng, Tư Duy Suy Diễn theo kinh nghiệm cá nhân khởi lên, SUY ĐOÁN đối tượng đó sẽ mất đi, sẽ không còn tồn tại trong một tương lai xa hay gần nào đó, và vì vậy, đối tượng đó vô thường.

Ví như nhìn một đứa bé rồi khởi lên, mấy chục năm nữa nó sẽ chết, nó sẽ vô thường. Thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp rồi hiểu rằng xinh đẹp đó sẽ vô thường trong mươi lăm năm sắp tới. Thấy một bông hoa đang nở tươi rói nhưng nghĩ rằng nó sẽ vô thường vì một tuần sau nó sẽ tàn lụi. Thấy một toà nhà cao tầng hiện đại, nghĩ rằng nó sẽ bị huỷ hoại, sẽ vô thường biến mất sau một ngàn năm nữa …

Hiểu biết các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận sẽ biến đổi thành cái khác, sẽ vô thường TRONG TƯƠNG LAI chứ không không phải nó vô thường trong giây phút hiện tại là SUY DIỄN TƯỞNG TƯỢNG ra vô thường mà KHÔNG TRỰC TIẾP thấy vô thường. Với hiểu biết vô thường như vậy thì vẫn còn rất nhiều thời gian để mà tận hưởng Dục lạc, tận hưởng niềm vui, hạnh phúc dài dài từ các đối tượng đó. Hiểu biết vô thường như vậy sẽ đưa đến một lối sống gấp, tận hưởng mọi lạc thú, không để nó trôi qua một cách uổng phí kiểu như, “nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ. Em, em ơi, tình non sắp già rồi”… Hiểu biết vô thường do duy diễn, tưởng tượng như vậy thì Tham ái càng mãnh liệt và Phiền não càng tăng thêm nên mới ca thán, “đã biết vô thường, sao lại còn phiền não”.

– Hai là : Hiểu biết vô thường nhưng thực chất là Thường kiến : Hiểu biết bởi Ý thức của nhân loại là Nhị Nguyên TÂM CẢNH, nghĩa là cái biết là TÂM và đối tượng được biết là CẢNH, là THẾ GIỚI sắc thanh hương vị xúc pháp, vì vậy những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là THẾ GIỚI NGOẠI CẢNH . Tất cả các pháp như to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, đẹp xấu, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mền thô mịn … là tính chất của thế giới ngoại cảnh, SẴN CÓ, THƯỜNG XUYÊN CÓ, THƯỜNG HẰNG, THƯỜNG TRÚ nơi thế giới ngoại cảnh, như ngọt ở trong đường, mặn trong muối, ngon dở trong thức ăn, nóng ở trong lửa, lạnh ở trong nước đá, cứng mền thô mịn, nặng nhẹ ở trong hòn đá, trong địa đại, Hạnh phúc sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong thế giới ngoại cảnh. Hạnh phúc có trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon,xúc chạm êm ái, trong tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, tài sản, trong sắc đẹp, thành đạt, danh tiếng … Hiểu biết này không đúng sự thật, là vô minh tà kiến mà thuật ngữ Phật học gọi là THƯỜNG KIẾN hay CHẤP CÓ. Hiểu biết vô thường của đa số người học Phật trên nền tảng THƯỜNG KIẾN hay CHẤP CÓ như vậy nên vẫn khát ái tìm cầu hạnh phúc chỗ này chỗ kia trong thế giới ngoại cảnh và vì vậy vẫn cứ phiền não nên ca thán hoài, ” đã biết vô thường sao lại còn phiền não”.

B – Hiểu biết đúng như thật vô thường :

– Muốn có được hiểu biết như thật vô thường hay Tuệ tri vô thường thì phải có được hiểu biết đúng như thật về Định Luật Nhân Quả hay Lý Duyên Khởi mà cụ thể là các pháp phát sinh theo quy luật : Hai nhân tiếp xúc nhau ( tương tác ) rồi cùng diệt mới phát sinh quả, chứ không phải một nhân biến đổi thành quả hay nhân chính biến đổi thành quả có các nhân phụ hay duyên trợ giúp như hiểu biết vô minh của nhân loại. Với quy luật này, nếu quan sát theo thời gian thì các pháp sinh lên rồi diệt đi, chỉ xuất hiện và tồn tại một lần duy nhất trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, không lặp lại lần thứ hai nên nó Vô thường, nếu quán sát theo chiều không gian thì các pháp là Vô chủ, vô sở hữu ( hay Vô ngã ).

– Thấu hiểu THỰC TẠI này là các CẢM THỌ chứ không phải THẾ GIỚI : Quan sát Lý Duyên Khởi để thấy biết sự thật, THỰC TẠI mà nhân loại đang sống là SÁU LOẠI CẢM GIÁC ( CẢM THỌ ) do Sáu Căn tiếp xúc ( tương tác ) Sáu Trần mà phát sinh gồm: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và Cảm giác pháp trần. Nhân loại đã nhầm lẫn ( vô minh ) một cách căn bản là Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỷ thức ngửi Hương trần, Thiệt thức nếm Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần và Ý thức biết Pháp trần ( Tâm biết Cảnh ) mà SỰ THẬT là Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc trần và Tưởng thức cảm nhận Cảm giác pháp trần ( Tâm biết Tâm ). Vì vậy, tất cả các pháp như to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mền thô mịn nặng nhe, nóng lạnh, đàn ông, đàn bà, xe cộ, nhà cửa, sum la vạn tượng … mà nhân loại lầm tưởng là thế giới hiện tượng, CHÍNH LÀ CÁC CẢM GIÁC do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh chứ không phải là Thế giới ngoại cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp trần. Khi BIẾT NHƯ THẬT các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận đó là CẢM GIÁC thì cũng BIẾT NHƯ THẬT NGAY LIỀN NÓ VÔ THƯỜNG. Ví như Phàm phu thấy cái bàn gỗ lim rồi hiểu biết khởi lên, cái bàn CỨNG, thì CỨNG là tính chất của cái bàn, sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú nơi cái bàn. Cái bàn đó sẽ bị hư hoại, sẽ biến mất trong vài ba chục năm nữa và lúc đó CỨNG của cái bàn cũng hoại diệt, lúc đó CỨNG SẼ VÔ THƯỜNG. Đó là Phàm phu chấp thường hay chấp có và thấy vô thường như vậy là do suy diễn, tưởng tượng. Nếu quan sát sự thật Bàn là một nhân và Bàn tay là nhân thứ hai nhưng chưa tiếp xúc thì chưa có CỨNG nào xuất hiện. Khi Bàn tay TIẾP XÚC Bàn thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC CỨNG mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được và Cảm giác cứng này mới là Thực tại của cuộc sống. XÚC sinh Cảm Giác Cứng sinh, XÚC diệt Cảm Giác Cứng diệt. Cảm Giác Cứng sinh lên rồi diệt đi, nó VÔ THƯỜNG, nó không sẵn có, không thường xuyên có, không thường hằng, không thường trú nơi cái bàn gỗ lim. Đây là thấy biết vô thường TRỰC TIẾP không phải là Suy Diễn Tưởng Tượng vô thường. Các pháp khác cũng quan sát tương tự như vậy. Khi Tuệ tri SÁU XÚC XỨ như vậy, sẽ Tuệ tri các pháp vô thường, bằng một cái biết trực tiếp về vô thường và quan trọng nhất là Tuệ tri được Hạnh Húc ( Vị ngọt ) là CẢM GIÁC DỄ CHỊU ( Lạc Thọ ) do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó Vô thường, nó sinh lên rồi diệt đi tức thì, nó không sẵn có, không thường xuyên có, không thường hằng, không thường trú trong thế giới ngoại cảnh, nó không có trong sức khoẻ, sắc đẹp, tiền bạc, tài sản, thành đạt, danh tiếng. Ví như, khi lưỡi tiếp xúc với một loại thức ăn thượng vị, phát sinh một cảm giác ( Lạc thọ ) và phát sinh tâm thích thú ( Tham ) cảm giác đó, và do thích thú cảm giác đó mà phát sinh một cảm giác hạnh phúc. Nếu bắt ăn món ăn thượng vị đó nhiều ngày liên tục thì cảm giác ngon không còn nữa, cảm giác hạnh phúc không còn phát sinh mà phát sinh cảm giác nhàm chán, đau khổ. Vì vậy, hạnh phúc là cảm giác, nó không có trong món ăn thượng vị. Một người lúc mới bắt đầu có tài sản một tỷ đô la sẽ rất thích thú khi nghĩ đến khối tài sản mà mình có được và do thích thú đó mà phát sinh cảm giác hạnh phúc, nhưng anh ta không thể nào suốt ngày chỉ nghĩ đến khối tài sản và cảm nhận hạnh phúc như vậy, anh ta còn có rất nhiều việc phải làm, phải lo nghĩ, phải toan tính, phải đối phó để giữ gìn và tăng trưởng khối tài sản nên lúc đó cảm giác hạnh phúc diệt đi, cảm giác bức xúc, đau khổ phát sinh. Vì vậy, hạnh phúc không có trong một tỷ đô la kia vì nếu có ở đó thì anh ta đã hạnh phúc liên tục suốt ngày, vì hạnh phúc chỉ là cảm giác. Nếu Tuệ tri Sáu Xúc Xứ, biết như thật Thực Tại là sáu loại Cảm Giác, Hạnh phúc chỉ là Cảm Giác, nó Vô thường, Vô chủ thì mới thấy nhân loại này quá vô minh, quá ngu si khi tham ái và nắm giữ Cảm Giác Hạnh phúc, là đối tượng không bao giờ có thể nắm giữ được vì nó vô thường và vô chủ.

2 – TUỆ TRI SỰ NGUY HIỂM :

– Thực Tại Cảm Giác là cuộc sống hàng ngày của con người và Thực Tại đó đang sinh diệt nhanh chóng, liên tục, không có bất kỳ một đối tượng nào của Thực Tại tồn tại lâu dài. Từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi nhắm mắt nằm ngủ, đã có vố số, vô lượng Cảm giác hình ảnh, những đối tượng được thấy, LIÊN TỤC SINH LÊN RỒI DIỆT ĐI. Mắt tiếp xúc với Sắc trần này làm phát sinh Cảm giác hình ảnh này và phát sinh Nhãn thức thấy đối tượng đó rồi Mắt lại tiếp xúc với Sắc trần khác làm phát sinh Cảm giác hình ảnh khác và phát sinh Nhãn thức thấy đối tượng khác. Khi đối tượng khác là Cảm giác hình ảnh khác phát sinh thì đối tượng này là Cảm giác hình ảnh này đã diệt. Các đối tượng được thấy là các Cảm giác hình ảnh đang SINH DIỆT nhanh chóng như vậy. Các đối tượng phát sinh nơi các giác quan khác cũng đang sinh diệt tương tự.

Thực Tại không những đang sinh diệt, Vô Thường mà nó còn có tính chất là Vô chủ, Vô sở hữu nghĩa là không có một cái gì, không có một ai, không có một cái Ta nào là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển các đối tượng thực tại hay thuật ngữ Phật học gọi là VÔ NGÃ

Thấy được các đối tượng của Thực Tại đang sinh diệt là phần quan trọng để đi đến thể nhập TRÍ TUỆ VỀ SỰ SINH DIỆT CỦA CÁC PHÁP mà như Kinh Pháp Cú đã xác nhận : ” Ai sống một trăm năm. Không thấy pháp sanh diệt. Không bằng sống một ngày. Thấy được pháp sanh diệt”.

– Các đối tượng của Thực Tại, trong đó có Lạc Thọ là vô thường, sinh diệt nên nếu Tham ái ( thích thú ) các Lạc thọ thì sẽ nắm giữ, muốn nó tồn tại mãi. Vì vậy, khi nó vô thường, biến hoại, biến diệt, mất đi thì sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Đây chính là SỰ NGUY HIỂM, THAM ÁI LẠC THỌ LÀ NGUY HIỂM vì nó sẽ đưa đến khổ. Vì tham ái và nắm giữ Lạc thọ nên khi không có Lạc thọ mà xuất hiện Khổ thọ thì Sân ( chán ghét ) khởi lên làm phát sinh khổ, hoặc xuất hiện Bất khổ bất lạc thọ thì Si khởi lên, tìm kiếm một Lạc thọ để thay thế Bất khổ bất lạc thọ nên cũng sẽ phát sinh khổ. Vì vậy, THAM ÁI LẠC THỌ LÀ NGUYÊN NHÂN KHỔ.

– Không những phải Tuệ tri các đối tượng của Thực Tai là Cảm Giác, Vô Thường, Vô Chủ mà còn phải Tuệ tri SỰ NGUY HIỂM tức Tuệ tri Tham ái lạc thọ là Nguyên Nhân Khổ, thì lúc đó mới Chấm Dứt Khổ, mới chấm dứt Phiền não. Lúc đó mới thực sự kinh nghiệm, “biết vô thường thì không còn phiền não”. Ví như, cùng thấy một hòn than lữa đỏ nhưng đứa trẻ một, hai tuổi không biết Sự nguy hiểm nên nó cầm lên chơi và kết quả bỏng tay rất đau khổ. Trái lại, người lớn đã trải nghiệm nên khi thấy hòn than cháy đỏ liền biết rõ Sự nguy hiểm nên không thể tay trần cầm lấy hòn than cháy đỏ nên không bỏng tay, không đau khổ.

3 – TUỆ TRI SỰ XUẤT LY VÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN XUẤT LY:

Nếu thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại mà HIỂU BIẾT NHƯ THẬT hay CHÁNH KIẾN khởi lên, BIẾT RÕ đối tượng đó là Cảm Thọ, nó Vô thường, Vô chủ, có vị ngọt ( Lạc thọ ), có sự nguy hiểm thì sẽ BIẾT RÕ SỰ XUẤT LY, nghĩa là biết rõ không có Tham Sân Si với đối tượng, cũng có nghĩa là biết rõ Khổ Diệt hay thuật ngữ Phật học gọi là biết rõ Niết Bàn. Nhưng không thể chỉ NGHE và TƯ DUY về Vô thường, về Sự nguy hiểm như vậy là có thể chấm dứt được Tham ái, chấm dứt được Khổ mà phải tu tập Bát Chánh Đạo mới có thể Tuệ tri về sự xuất ly, tuệ tri về Khổ Diệt. Tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế cũng có nghĩa là thực hành Tứ Niệm Xứ, thực hành Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm Pháp mà thực chất là luyện tập TRÍ NHỚ, để Nhớ được các nội dung quan trọng đã Nghe và Tư Duy trên. Luyện tập Chánh Niệm nghĩa là luyện tập Trí Nhớ cho thuần thục đến mức độ, sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng bởi tâm biết trực tiếp giác quan ( gọi là Tĩnh Giác ) LẬP TỨC Trí Nhớ về nội dung đã nghe, đã tư duy như trên khởi lên, và cái đó gọi là CHÁNH NIỆM. Do có Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tư Duy khởi lên làm phát sinh Chánh Kiến, là tâm biết ý thức, BIẾT đối tượng đó là Cảm thọ, nó Vô thường, Vô chủ, nó có vị ngọt, có SỰ NGUY HIỂM. Với CHÁNH KIẾN biết đối tượng như vậy thì sẽ biết ngay, không có Tham Sân Si, không có Phiền não với đối tượng. Đó gọi là biết rõ SỰ XUẤT LY. Sự luyện tập Chánh Niệm, luyện tập Trí Nhớ với nội dung này phải liên tục, phải kỳ công hình dung như khi học ngoại ngữ. Người học ngoại ngữ sau khi thấy hình ảnh chữ đó, nghe âm thanh chữ đó phải liên tục luyện tập trí nhớ, để nhớ được nội dung chữ viết và âm thanh đó kể cả phải thực tập phiên dịch trực tiếp cho đến khi thành tựu. Lúc đó, hễ nhìn hay nghe thì Trí nhớ về nội dung đó TỰ ĐỘNG THUẦN THỤC khởi lên. Sự tinh tấn, tinh cần, liên tục luyện tập Chánh Niệm ( Trí nhớ có nội dung trên ) sẽ đưa đến xoá bỏ Vô minh và thành tựu sự Giác Ngộ mà Đức Phật đã tuyên bố trong Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh : “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”.

Thiền sư Nguyên Tuệ

Để lại một bình luận