Bản Kinh A DI ĐÀ là giáo lý của tông Tịnh Độ, một tông phái của Phật giáo Bắc tông. Sự xiển dương và hành trì của tông Tịnh độ trong quá khứ cũng như hiện nay chứng tỏ những vị Tổ sư của tông phái này chưa bao giờ đọc kỹ kinh A di đà nên đã không hiểu được nội dung cũng như chủ đích của kinh A di đà, vì vậy xiển đương và hành trì sai lạc với nội dung và chủ đích của Kinh A di đà.
A – Một nội dung quan trọng nhất mà người đọc kinh thường bỏ qua, đó là phong cảnh và sinh hoạt, đời sống của cư dân Tịnh độ.
1 – Phong cảnh của Tây phương cực lạc được mô tả rất hoành tráng với vàng bạc, hổ phách, xà cừ, mã não… nhưng điểm nhấn của phong cảnh này là những loài chim quý như Bach hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già …ngày đêm sáu thời , tiếng hót hoà nhã phát ra Pháp Âm : Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo phần. Và những hàng cây báu những lưới ngọc giăng phát ra những âm thanh vi diệu khiến cho những ai nghe được thì đều phát sinh Chánh Niệm : Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng.
Qua sự mô tả này phải hiểu rằng Tây phương cực lạc là môi trường lý tưởng cho người Phật tử, cho người muốn tìm hiểu và tu tập Pháp. Ở đây có đầy đủ điều kiện để nghe Pháp thể hiện qua hình ảnh các loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói Pháp Âm như Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề phần, Bát Chánh Đạo phần. Đây là điều kiện lý tưởng để có được Văn Tuệ, Trí Tuê do nghe mà có được. Những hàng cây báu, những lưới ngọc giăng phát ra những âm thanh vi diệu liên tục có tác dụng làm cho Chánh Niệm : Nhớ đến Phật, Nhớ đến Pháp, Nhớ đến Tăng liên tục khởi lên và nhờ vậy các Niệm và Tư duy thế tục tức Tà Niệm được nhiếp phục ,không khởi lên. Nhờ có Chánh Niệm về Phật, về Pháp, về Tăng như vậy mà sẽ có Chánh Tư duy về những điếu đã được nghe mà có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về Phật, Pháp, Tăng và như vậy sẽ có Tư Tuệ. Không những Chánh Niệm về Phật, Pháp, Tăng phát sinh Tư Tuệ như vậy mà Chánh Niệm sẽ khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, đưa đến thấy biết như thật gọi là Tu Tuệ, chính là Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
Như vậy Tây phương cực lạc là hình ảnh ẩn dụ cho một môi trường lý tưởng để có được Văn Tuệ, Tư Tuệ và Tu Tuệ. Nó chính là nhân, là duyên, là yếu tố, là điều kiện cho Văn – Tư – Tu.
2 – Đời sống sinh hoạt của cư dân Tây phương cực lạc:
Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng các hoa tốt, đem cúng dường mười muôn ức cõi Phật ở phương khác,đến giờ ăn liền về bổn quốc, ăn cơm xong liền đi kinh hành
Xá lợi Phất, cõi nước cực lạc, thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cọng mạng. Những giống chim đó ngày đêm sáu thời tiếng hót hoà nhã
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần…v v.Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá lợi Phất, trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng một lúc hoà chung. Người nào nghe tiếng đó đều sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đoạn trích từ Kinh A di đà trên cho thấy đời sống và sinh hoạt của cư dân nơi cõi nước Cực lạc diễn ra như sau:
a – Sáng sớm thức dậy lễ bái cúng dường chư Phật mười phương, sau đó cơm nước xong ,liền tu tập Thiền Hành. Ẩn ý của câu văn này là cư dân Tịnh độ ăn ngày một bữa , ăn xong thì lập tức tu hành.
b – Những loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói Pháp Âm của Phật, những âm thanh do các hàng cây báu, những lưới báu phát ra làm cho cư dân Tịnh độ sinh lòng niệm Phật ,niệm Pháp, niệm Tăng ẩn ý nói rằng ở đây tu hành liên tục không dừng nghỉ, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng không dừng nghỉ. Và thế nào là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng?
– Niệm Phật là nhớ đến: Phật là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Không những nhớ đến mười danh hiệu tức mười phẩm tánh của một Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà còn tư duy tìm hiểu, thấu rõ mười phẩm tánh của một Đức Phật. Nhờ thực hành Niệm Phật như vậy mà tâm tư được lắng trong, các ô nhiễm và lậu hoặc được nhiếp phục và người ấy đạt được an lạc không có khó khăn. Pháp Niệm Phật như vậy là pháp Niệm Phật được tất cả các tông phái chấp nhận, được thực hành ở Tây phương cực lạc, được Kinh điển đề cập đến. Còn niệm Nam mô A di đà Phật cũng là niệm Phật nhưng chỉ là pháp niệm Phật của tông Tịnh độ, các tông phái khác không chấp nhận.
– Niệm Pháp là nhớ đến và thực hành Pháp bao gồm:
A – Một nội dung quan trọng nhất mà người đọc kinh thường bỏ qua, đó là phong cảnh và sinh hoạt, đời sống của cư dân Tịnh độ.
1 – Phong cảnh của Tây phương cực lạc được mô tả rất hoành tráng với vàng bạc, hổ phách, xà cừ, mã não… nhưng điểm nhấn của phong cảnh này là những loài chim quý như Bach hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già …ngày đêm sáu thời , tiếng hót hoà nhã phát ra Pháp Âm : Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo phần. Và những hàng cây báu những lưới ngọc giăng phát ra những âm thanh vi diệu khiến cho những ai nghe được thì đều phát sinh Chánh Niệm : Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng.
Qua sự mô tả này phải hiểu rằng Tây phương cực lạc là môi trường lý tưởng cho người Phật tử, cho người muốn tìm hiểu và tu tập Pháp. Ở đây có đầy đủ điều kiện để nghe Pháp thể hiện qua hình ảnh các loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói Pháp Âm như Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề phần, Bát Chánh Đạo phần. Đây là điều kiện lý tưởng để có được Văn Tuệ, Trí Tuê do nghe mà có được. Những hàng cây báu, những lưới ngọc giăng phát ra những âm thanh vi diệu liên tục có tác dụng làm cho Chánh Niệm : Nhớ đến Phật, Nhớ đến Pháp, Nhớ đến Tăng liên tục khởi lên và nhờ vậy các Niệm và Tư duy thế tục tức Tà Niệm được nhiếp phục ,không khởi lên. Nhờ có Chánh Niệm về Phật, về Pháp, về Tăng như vậy mà sẽ có Chánh Tư duy về những điếu đã được nghe mà có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về Phật, Pháp, Tăng và như vậy sẽ có Tư Tuệ. Không những Chánh Niệm về Phật, Pháp, Tăng phát sinh Tư Tuệ như vậy mà Chánh Niệm sẽ khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, đưa đến thấy biết như thật gọi là Tu Tuệ, chính là Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
Như vậy Tây phương cực lạc là hình ảnh ẩn dụ cho một môi trường lý tưởng để có được Văn Tuệ, Tư Tuệ và Tu Tuệ. Nó chính là nhân, là duyên, là yếu tố, là điều kiện cho Văn – Tư – Tu.
2 – Đời sống sinh hoạt của cư dân Tây phương cực lạc:
Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng các hoa tốt, đem cúng dường mười muôn ức cõi Phật ở phương khác,đến giờ ăn liền về bổn quốc, ăn cơm xong liền đi kinh hành
Xá lợi Phất, cõi nước cực lạc, thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cọng mạng. Những giống chim đó ngày đêm sáu thời tiếng hót hoà nhã
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần…v v.Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá lợi Phất, trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng một lúc hoà chung. Người nào nghe tiếng đó đều sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đoạn trích từ Kinh A di đà trên cho thấy đời sống và sinh hoạt của cư dân nơi cõi nước Cực lạc diễn ra như sau:
a – Sáng sớm thức dậy lễ bái cúng dường chư Phật mười phương, sau đó cơm nước xong ,liền tu tập Thiền Hành. Ẩn ý của câu văn này là cư dân Tịnh độ ăn ngày một bữa , ăn xong thì lập tức tu hành.
b – Những loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói Pháp Âm của Phật, những âm thanh do các hàng cây báu, những lưới báu phát ra làm cho cư dân Tịnh độ sinh lòng niệm Phật ,niệm Pháp, niệm Tăng ẩn ý nói rằng ở đây tu hành liên tục không dừng nghỉ, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng không dừng nghỉ. Và thế nào là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng?
– Niệm Phật là nhớ đến: Phật là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Không những nhớ đến mười danh hiệu tức mười phẩm tánh của một Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà còn tư duy tìm hiểu, thấu rõ mười phẩm tánh của một Đức Phật. Nhờ thực hành Niệm Phật như vậy mà tâm tư được lắng trong, các ô nhiễm và lậu hoặc được nhiếp phục và người ấy đạt được an lạc không có khó khăn. Pháp Niệm Phật như vậy là pháp Niệm Phật được tất cả các tông phái chấp nhận, được thực hành ở Tây phương cực lạc, được Kinh điển đề cập đến. Còn niệm Nam mô A di đà Phật cũng là niệm Phật nhưng chỉ là pháp niệm Phật của tông Tịnh độ, các tông phái khác không chấp nhận.
– Niệm Pháp là nhớ đến và thực hành Pháp bao gồm:
Nhớ đến Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng có tính chất: Thiết thực hiện tại, Đến để mà thấy, Không bị chi phối bởi thời gian, Có tính hướng thượng, Cho người trí tự mình giác ngộ.
Nhớ đến Lý Duyên Khởi, nhớ đến các pháp Vô thường, Vô ngã, nhớ đến thấy biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo tức nhớ đến Tứ Thánh Đế.
Nhớ đến sự thực hành : Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo.
Tóm lại Niệm Pháp là nhớ đến và thực hành Tứ Thánh Đế trong đó có Bát Chánh Đạo.
– Niệm Tăng là nhớ đến: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn,Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là có bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Nhờ Niệm Tăng như vậy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não được nhiếp phục.
B – Định nghĩa khái niệm cực lạc:
Vì chúng sanh trong cõi đó không có những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui nên cõi nước đó tên là Cực Lạc.
Theo sự mô tả về đời sống sinh hoạt của cư dân Tịnh độ, họ chỉ học tập về Tứ Thánh Đế và tu tập Bát Chánh Đạo. Tuy Tứ Thánh Đế không được nhắc đến, chỉ đề cập Bát Chánh Đạo, nhưng sự tu tập Bát Chánh Đạo không thể tách biệt Tứ Thánh Đế, vì rằng Bát Chánh Đạo là một Đế trong bốn Đế. Tuy kinh đề cập tới ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần nhưng hàm ý là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và thực chất ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cách đề cập các khía cạnh khác nhau của Bát Chánh Đạo hiệp thế và siêu thế.
Do sự thực hành liên tục như vậy mà lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên và hiện hữu liên tục, lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu được nhiếp phục, không khởi lên. Do vậy vị ấy chứng ngộ được trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có sự vắng mặt Vô minh, vắng mặt Tham Sân Si, vắng mặt sầu bi khổ ưu não, nghĩa là chứng ngộ được Khổ Diệt hay thuật ngữ Phật học gọi là Niết Bàn. Vị ấy cũng chứng ngộ được Bát Chánh Đạo là con đường Chấm dứt Khổ và đây là chứng ngộ Diệt Đế và Đạo Đế. Cư dân nơi Cực Lạc không có những sự khổ là do thực hành Bát Chánh Đạo như vậy
Cư dân ở đó chỉ hưởng những điều vui là như thế nào? Khi Bát Chánh Đạo khởi có ba pháp là cái trục chính của Bát Chánh Đạo là Chánh Niệm – Chánh Định – Chánh Kiến mà nói tắt là Niệm – Định – Tuệ. Trong đó Chánh Định có thể là Sơ thiên, Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền. Nếu là Sơ thiền thì sẽ có hỷ lạc do ly dục sanh, nếu Nhị thiền sẽ có hỷ lạc do định sanh, nếu Tam thiền sẽ có lạc do xả sanh, nếu Tứ thiền sẽ có xả niệm thanh tịnh. Cư dân Tịnh độ chỉ hưởng những điều vui, đó là cái vui nội tâm do các mức độ định mà có. Đây gọi là vui hay kinh gọi là lạc, một thứ lạc vô hại, không nguy hiểm như Dục Lạc thế gian vui ít ,khổ nhiều ,não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Kẻ phàm phu vì tham đắm và khát khao Dục Lạc nên phải lao tâm khổ trí nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Vì Dục Lạc mà cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, người ta đâm chém giành giật nhau, người ta tạt a xít vào mặt nhau, người ta chế tạo và buôn bán ma tuý, người ta chế tạo bom đạn kể cả bom hạt nhân để tàn sát tàn hại lẫn nhau. Vì cái thứ Lạc ấy mà có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi. Vì lạc ấy mà có biết bao lừa đảo, phá sản, biết bao tội ác và khổ đau trên thế gian này. Vì lạc ấy mà các cô hoa hậu bán dâm, vì lạc ấy mà có con trai giao cấu với cả mẹ đẻ của mình, có ông bố hiếp dâm đứa con đẻ sáu tuổi… Lạc đó của Dục Lạc thế gian gọi là phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Lạc đó đáng sợ hãi và cần xa lánh. Trái với Dục Lạc thế gian ,lạc của các bậc thiền là vô hại nó đưa đến xa lánh Dục Lạc, viễn ly, đoạn trừ, đoạn tận tham ái Dục Lạc nên nó là Thánh lạc, chánh giác lạc, an ổn lạc, viễn ly lạc.
Như vậy khái niệm Cực Lạc ở đây khác với các khái niệm Thiên đường cực lạc của các tôn giáo khác, khác với quan niệm của phàm phu về cực lạc. Đối với các tôn giáo và phàm phu thì Thế giới cực lạc là nơi chỉ có sắc đep, tiếng hay, hương thơm ,vị ngon, xúc chạm êm ái… muốn tận hưởng bao nhiêu cũng có, không bao giờ thiếu, nơi muốn gì được nấy. Thế giới cực lạc như vậy chỉ là do tâm tham ái Dục lạc mơ ước suy diển mà tưởng tượng ra.
KẾT LUẬN là cư dân ở Tây phương cực lạc không có những sự khổ chỉ hưởng toàn vui là do họ có được môi trường lý tưởng để tu tập Tứ Thánh Đế, tu tập Bát Chánh đạo. Nhờ môi trường lý tưởng nên sự tu tập của họ xẩy ra liên tục không gián đoạn vì vậy họ chứng ngộ và an trú Khổ Diệt ( Niết Ban ) .Sự an trú Khổ Diệt của các cư dân Tịnh độ không phải do đức Phật A di đà mang đến mà do mỗi người thực hành mà đạt được. Đức Phật A di đà được hiểu là nhân duyên, là yếu tố và điều kiện cho sự tu tập Bát Chánh Đạo.
C – Tuổi thọ vô lượng vô biên:
Xá lợi Phất , đức Phật A di đà và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp nên gọi là A di đà.
Câu này nếu hiểu theo nghĩa đen là một điều phi lý, trái với sự thật Vô thường, nó phải được hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ theo ngữ cảnh của bài Kinh, cái ngữ cảnh đã được phân tích ở trên. Đích đến của cuộc sống cũng là đích đến của sự thực hành Bát Chánh Đạo là Sự Chấm Dứt Khổ. Khi thực hành Bát Chánh đạo chứng ngộ và an trú Khổ Diệt hay nói theo cách khác là chứng ngộ và an trú Niết Bàn thì đó là đích đến, không có một cái đích nào khác nữa. Những ai đã đến đích đó, đã Chấm Dứt Khổ thì đều cảm thán lên: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành ,những việc cần làm đã làm ( xong ), không còn trở lui đời này nữa. Đó là sự vắng lặng vĩnh viễn của Vô minh, của tham sân si, của sầu bi khổ ưu não, của sinh già bệnh chết, sự vắng lặng vĩnh viễn của đời này, đời sau, của quảng giữa hai đời, đó chính là sự đoạn tận khổ đau. Kinh điển nguyên thuỷ hay dùng từ bất tử để chỉ cho sự chứng ngộ này và kinh A di đà lại dùng tuổi thọ vô lượng vô biên cũng là để ám chỉ sự chứng ngộ đó.
Kinh A di đà chỉ dừng lại đời sống và sinh hoạt của cư dân Tịnh độ mà không hề nói đến lý tưởng thành Phật như các kinh điển Đại thừa khác, không hề bàn đến tương lai bởi mục đích của sự thực hành Phật pháp là Chấm Dứt Khổ chứ không phải mục đích là để trở thành, không phải để trở thành một con người vĩ đại, một con người siêu việt. Danh xưng Phật hay Ala hán là để chỉ cho những người đã chấm dứt khổ mà thôi. Phát nguyện tu để thành Phật, thành Chánh Đẳng giác để độ thoát tất cả chúng sinh và Ta sẽ là người thành Phật sau cùng cũng xuất phát từ chấp thủ Bản ngã hết sức vi tế nhưng cũng cực kỳ ghê ghớm.
D – Phát nguyện vãng sanh : phát nguyện vãng sanh về Tây phương cực lạc sau khi hiểu biết về Tứ Thánh Đế và tin vào sự thực hành Bát Chánh Đạo đưa đến chấm dứt khổ đau vì đó là môi trường lý tưởng để học hỏi và tu tập Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo, và cũng vì tại nơi đó có rất nhiều vị Ala han, nhiều vị bồ tát … đã tu tập thành công. Tuyệt nhiên không phải phát nguyện vãng sanh Tây phương cực lạc để hưởng thụ Dục Lạc, để thoả mãn ham muốn sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái…v v. như nhận thức của phàm phu và các tôn giáo khác. Sự phát nguyện này phải được hiểu theo tiến trình ngũ căn: Tín – Tấn – Niệm – Định – Tuệ. Tín là do được nghe mà có được hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo tức Tứ Thánh Đế mà Chánh tín khởi lên, và do Chánh tín mà khởi quyết tâm tu tập Bát Chánh Đạo ( nghĩa là phát nghuyện ),do phát nguyện đó mà phát sinh Tinh Tấn, và do Tinh Tấn mà có sự tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế ,lúc đó Niệm – Định – Tuệ khởi lên.
Tất cả chư Phật đều tán thán và hộ niệm cho Kinh này cũng có nghĩa là tán thán và hộ niệm cho người phát tâm vãng sanh Tây phương cực lạc với mục đích tu tập Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo để chấm dứt khổ. Điều này cũng khẳng định : Các Đức Phật trong thời quá khứ, các Đức Phật trong thời hiện tại, các Đức Phật trong thời vị lai chỉ giảng dạy và tán thán một con đường độc nhất đưa đến đoạn tận khổ đau, đó là Bát Chánh Đạo.
E – Sự vãng sanh Tây phương cực lạc :
Phần đầu bản kinh thì nói rằng: Xá lợi Phất, nếu có thiện nam tử , thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A di đà rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày , hoặc năm ngày , hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A di đà cùng Thánh chúng hiện thân trước người đó. Người đó lúc chết tâm không điên đảo liền được vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A di đà
Phần cuối bản kinh lại khẳng định :Xá lợi Phất , Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện sinh về cõi nước của Phật A di đà, thì những người ấy đều không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở cõi nước kia hoặc đã sanh về, hiện đang sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Nội dung của sự vãng sinh ở phần đầu và phần cuối mâu thuẫn nhau, tiền hậu bất nhất. Phần đầu thì nói sau khi chết mới được vãng sanh, phần cuối thì nói ai đã phát nguyện thì đã vãng sanh rồi đâu chờ đến lúc chết mới vãng sanh. Những gì mà tiền hậu bất nhất thì đều không phải là sự thật, không đáng tin. Đây chính là cái nút thắt của bộ kinh, gỡ được cái nút thắt này sẽ thấy được chủ ý của bộ kinh.
Tác giả của bộ kinh phải là người rất thôngminh, hiểu nhiều biết rộng không thể nào phạm một cái lỗi như vậy, vì rằng bản văn tương đối ngắn chứ không phải tràng giang đại hải mấy trăm , mấy nghìn trang để khi viết đoạn sau không biết đoạn trước đã viết những gì, do đó mà phạm lỗi .Phải thấy rằng tác giả cố trưng ra cái tiền hậu bất nhất ấy với hai chủ ý:
Một là bản kinh này không được hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ. Đây cũng là đặc tính đặc trưng của tư tưởng Ấn độ. Hãy xuyên qua ngôn ngữ, xuyên qua sự việc theo nghĩa đen của ngôn ngữ chỉ bày để thấu suốt chủ ý của tác giả.
Hai là kinh nói : người đã phát nguyện thì đã sinh rồi nghĩa là đã ở Tịnh độ rồi thì hãy sống như một cư dân tịnh độ nghĩa là Niệm Phật, Niệm Pháp , Niệm Tăng, cũng có nghĩa là thực hành Bát Chánh Đạo ngày đêm liên tục không dừng nghỉ. Một đời sống như vậy thì không còn những sự khổ chỉ hưởng toàn vui, cái vui nội tâm của Sơ thiền , Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền. Phải chăng đó chính là Tây phương cực lạc hiện tiền ngay bây giờ và tại đây đâu chờ sau khi chết mới vãng sanh. Một chủ ý khác nữa của kinh là dùng câu niệm Nam mô A di đà phật để cho tâm bớt loạn động, tạo nhân duyên cho sự tu tập Bát Chánh Đạo. Và những ai đã niêm Phật A di đà và phát nguyện vãng sinh rồi thì hãy tiến tu Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo.
G – Kết luận : Bát Chánh Đạo là con đường độc nhất, pháp môn tu độc nhất giúp cho chúng sanh diệt trừ phiền náo, chấm dứt khổ ưu ,thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết bàn.
Trong tác phẩm Cư Trần Lạc Đạo vua Trần Nhân Tông đã viết:
Tịnh độ là lòng trong sạch, chứ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di đà là tính sáng soi,mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Nghĩa là khi lòng trong sạch, không còn tham sân si, sầu bi khổ ưu não, khi mà Trí tuệ đã sáng soi, liễu tri tất cả pháp thì đâu còn đi tìm Tây phương cực lạc
Trong tác phẩm Tứ Diệu Đế với song ngữ Anh – Việt của Đat Lai Lat Ma, Ngài đã viết: Mặc dù sự thực hành của tôi kết quả rất kém cỏi, nhưng tôi chỉ thấy nó có kết quả khi tôi thực hành Tứ Diệu Đế và Bồ Đề Tâm. Còn khi tôi quán tưởng các vị thần ( thực hành Mật Tông ), tôi cảm nhận như là đang tự lừa đối mình. Đạt lai Lat ma là lãnh tụ tinh thần của Phật giáo và dân tộc Tây tạng, Ngài là vị có thẩm quyền về Mật Tông nhưng Ngài đã thổ lộ như vậy về Mật Tông. Đây là một con người chân thật và dũng cảm phi thường và Ngài cũng nhận ra Bát Chánh Đạo là con đường độc nhất đưa đến chấm dứt Khổ.
Nhớ đến Lý Duyên Khởi, nhớ đến các pháp Vô thường, Vô ngã, nhớ đến thấy biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo tức nhớ đến Tứ Thánh Đế.
Nhớ đến sự thực hành : Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo.
Tóm lại Niệm Pháp là nhớ đến và thực hành Tứ Thánh Đế trong đó có Bát Chánh Đạo.
– Niệm Tăng là nhớ đến: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn,Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là có bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Nhờ Niệm Tăng như vậy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não được nhiếp phục.
B – Định nghĩa khái niệm cực lạc:
Vì chúng sanh trong cõi đó không có những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui nên cõi nước đó tên là Cực Lạc.
Theo sự mô tả về đời sống sinh hoạt của cư dân Tịnh độ, họ chỉ học tập về Tứ Thánh Đế và tu tập Bát Chánh Đạo. Tuy Tứ Thánh Đế không được nhắc đến, chỉ đề cập Bát Chánh Đạo, nhưng sự tu tập Bát Chánh Đạo không thể tách biệt Tứ Thánh Đế, vì rằng Bát Chánh Đạo là một Đế trong bốn Đế. Tuy kinh đề cập tới ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần nhưng hàm ý là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và thực chất ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cách đề cập các khía cạnh khác nhau của Bát Chánh Đạo hiệp thế và siêu thế.
Do sự thực hành liên tục như vậy mà lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên và hiện hữu liên tục, lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu được nhiếp phục, không khởi lên. Do vậy vị ấy chứng ngộ được trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có sự vắng mặt Vô minh, vắng mặt Tham Sân Si, vắng mặt sầu bi khổ ưu não, nghĩa là chứng ngộ được Khổ Diệt hay thuật ngữ Phật học gọi là Niết Bàn. Vị ấy cũng chứng ngộ được Bát Chánh Đạo là con đường Chấm dứt Khổ và đây là chứng ngộ Diệt Đế và Đạo Đế. Cư dân nơi Cực Lạc không có những sự khổ là do thực hành Bát Chánh Đạo như vậy
Cư dân ở đó chỉ hưởng những điều vui là như thế nào? Khi Bát Chánh Đạo khởi có ba pháp là cái trục chính của Bát Chánh Đạo là Chánh Niệm – Chánh Định – Chánh Kiến mà nói tắt là Niệm – Định – Tuệ. Trong đó Chánh Định có thể là Sơ thiên, Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền. Nếu là Sơ thiền thì sẽ có hỷ lạc do ly dục sanh, nếu Nhị thiền sẽ có hỷ lạc do định sanh, nếu Tam thiền sẽ có lạc do xả sanh, nếu Tứ thiền sẽ có xả niệm thanh tịnh. Cư dân Tịnh độ chỉ hưởng những điều vui, đó là cái vui nội tâm do các mức độ định mà có. Đây gọi là vui hay kinh gọi là lạc, một thứ lạc vô hại, không nguy hiểm như Dục Lạc thế gian vui ít ,khổ nhiều ,não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Kẻ phàm phu vì tham đắm và khát khao Dục Lạc nên phải lao tâm khổ trí nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Vì Dục Lạc mà cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, người ta đâm chém giành giật nhau, người ta tạt a xít vào mặt nhau, người ta chế tạo và buôn bán ma tuý, người ta chế tạo bom đạn kể cả bom hạt nhân để tàn sát tàn hại lẫn nhau. Vì cái thứ Lạc ấy mà có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi. Vì lạc ấy mà có biết bao lừa đảo, phá sản, biết bao tội ác và khổ đau trên thế gian này. Vì lạc ấy mà các cô hoa hậu bán dâm, vì lạc ấy mà có con trai giao cấu với cả mẹ đẻ của mình, có ông bố hiếp dâm đứa con đẻ sáu tuổi… Lạc đó của Dục Lạc thế gian gọi là phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Lạc đó đáng sợ hãi và cần xa lánh. Trái với Dục Lạc thế gian ,lạc của các bậc thiền là vô hại nó đưa đến xa lánh Dục Lạc, viễn ly, đoạn trừ, đoạn tận tham ái Dục Lạc nên nó là Thánh lạc, chánh giác lạc, an ổn lạc, viễn ly lạc.
Như vậy khái niệm Cực Lạc ở đây khác với các khái niệm Thiên đường cực lạc của các tôn giáo khác, khác với quan niệm của phàm phu về cực lạc. Đối với các tôn giáo và phàm phu thì Thế giới cực lạc là nơi chỉ có sắc đep, tiếng hay, hương thơm ,vị ngon, xúc chạm êm ái… muốn tận hưởng bao nhiêu cũng có, không bao giờ thiếu, nơi muốn gì được nấy. Thế giới cực lạc như vậy chỉ là do tâm tham ái Dục lạc mơ ước suy diển mà tưởng tượng ra.
KẾT LUẬN là cư dân ở Tây phương cực lạc không có những sự khổ chỉ hưởng toàn vui là do họ có được môi trường lý tưởng để tu tập Tứ Thánh Đế, tu tập Bát Chánh đạo. Nhờ môi trường lý tưởng nên sự tu tập của họ xẩy ra liên tục không gián đoạn vì vậy họ chứng ngộ và an trú Khổ Diệt ( Niết Ban ) .Sự an trú Khổ Diệt của các cư dân Tịnh độ không phải do đức Phật A di đà mang đến mà do mỗi người thực hành mà đạt được. Đức Phật A di đà được hiểu là nhân duyên, là yếu tố và điều kiện cho sự tu tập Bát Chánh Đạo.
C – Tuổi thọ vô lượng vô biên:
Xá lợi Phất , đức Phật A di đà và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp nên gọi là A di đà.
Câu này nếu hiểu theo nghĩa đen là một điều phi lý, trái với sự thật Vô thường, nó phải được hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ theo ngữ cảnh của bài Kinh, cái ngữ cảnh đã được phân tích ở trên. Đích đến của cuộc sống cũng là đích đến của sự thực hành Bát Chánh Đạo là Sự Chấm Dứt Khổ. Khi thực hành Bát Chánh đạo chứng ngộ và an trú Khổ Diệt hay nói theo cách khác là chứng ngộ và an trú Niết Bàn thì đó là đích đến, không có một cái đích nào khác nữa. Những ai đã đến đích đó, đã Chấm Dứt Khổ thì đều cảm thán lên: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành ,những việc cần làm đã làm ( xong ), không còn trở lui đời này nữa. Đó là sự vắng lặng vĩnh viễn của Vô minh, của tham sân si, của sầu bi khổ ưu não, của sinh già bệnh chết, sự vắng lặng vĩnh viễn của đời này, đời sau, của quảng giữa hai đời, đó chính là sự đoạn tận khổ đau. Kinh điển nguyên thuỷ hay dùng từ bất tử để chỉ cho sự chứng ngộ này và kinh A di đà lại dùng tuổi thọ vô lượng vô biên cũng là để ám chỉ sự chứng ngộ đó.
Kinh A di đà chỉ dừng lại đời sống và sinh hoạt của cư dân Tịnh độ mà không hề nói đến lý tưởng thành Phật như các kinh điển Đại thừa khác, không hề bàn đến tương lai bởi mục đích của sự thực hành Phật pháp là Chấm Dứt Khổ chứ không phải mục đích là để trở thành, không phải để trở thành một con người vĩ đại, một con người siêu việt. Danh xưng Phật hay Ala hán là để chỉ cho những người đã chấm dứt khổ mà thôi. Phát nguyện tu để thành Phật, thành Chánh Đẳng giác để độ thoát tất cả chúng sinh và Ta sẽ là người thành Phật sau cùng cũng xuất phát từ chấp thủ Bản ngã hết sức vi tế nhưng cũng cực kỳ ghê ghớm.
D – Phát nguyện vãng sanh : phát nguyện vãng sanh về Tây phương cực lạc sau khi hiểu biết về Tứ Thánh Đế và tin vào sự thực hành Bát Chánh Đạo đưa đến chấm dứt khổ đau vì đó là môi trường lý tưởng để học hỏi và tu tập Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo, và cũng vì tại nơi đó có rất nhiều vị Ala han, nhiều vị bồ tát … đã tu tập thành công. Tuyệt nhiên không phải phát nguyện vãng sanh Tây phương cực lạc để hưởng thụ Dục Lạc, để thoả mãn ham muốn sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái…v v. như nhận thức của phàm phu và các tôn giáo khác. Sự phát nguyện này phải được hiểu theo tiến trình ngũ căn: Tín – Tấn – Niệm – Định – Tuệ. Tín là do được nghe mà có được hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo tức Tứ Thánh Đế mà Chánh tín khởi lên, và do Chánh tín mà khởi quyết tâm tu tập Bát Chánh Đạo ( nghĩa là phát nghuyện ),do phát nguyện đó mà phát sinh Tinh Tấn, và do Tinh Tấn mà có sự tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế ,lúc đó Niệm – Định – Tuệ khởi lên.
Tất cả chư Phật đều tán thán và hộ niệm cho Kinh này cũng có nghĩa là tán thán và hộ niệm cho người phát tâm vãng sanh Tây phương cực lạc với mục đích tu tập Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo để chấm dứt khổ. Điều này cũng khẳng định : Các Đức Phật trong thời quá khứ, các Đức Phật trong thời hiện tại, các Đức Phật trong thời vị lai chỉ giảng dạy và tán thán một con đường độc nhất đưa đến đoạn tận khổ đau, đó là Bát Chánh Đạo.
E – Sự vãng sanh Tây phương cực lạc :
Phần đầu bản kinh thì nói rằng: Xá lợi Phất, nếu có thiện nam tử , thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A di đà rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày , hoặc năm ngày , hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A di đà cùng Thánh chúng hiện thân trước người đó. Người đó lúc chết tâm không điên đảo liền được vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A di đà
Phần cuối bản kinh lại khẳng định :Xá lợi Phất , Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện sinh về cõi nước của Phật A di đà, thì những người ấy đều không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở cõi nước kia hoặc đã sanh về, hiện đang sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Nội dung của sự vãng sinh ở phần đầu và phần cuối mâu thuẫn nhau, tiền hậu bất nhất. Phần đầu thì nói sau khi chết mới được vãng sanh, phần cuối thì nói ai đã phát nguyện thì đã vãng sanh rồi đâu chờ đến lúc chết mới vãng sanh. Những gì mà tiền hậu bất nhất thì đều không phải là sự thật, không đáng tin. Đây chính là cái nút thắt của bộ kinh, gỡ được cái nút thắt này sẽ thấy được chủ ý của bộ kinh.
Tác giả của bộ kinh phải là người rất thôngminh, hiểu nhiều biết rộng không thể nào phạm một cái lỗi như vậy, vì rằng bản văn tương đối ngắn chứ không phải tràng giang đại hải mấy trăm , mấy nghìn trang để khi viết đoạn sau không biết đoạn trước đã viết những gì, do đó mà phạm lỗi .Phải thấy rằng tác giả cố trưng ra cái tiền hậu bất nhất ấy với hai chủ ý:
Một là bản kinh này không được hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ. Đây cũng là đặc tính đặc trưng của tư tưởng Ấn độ. Hãy xuyên qua ngôn ngữ, xuyên qua sự việc theo nghĩa đen của ngôn ngữ chỉ bày để thấu suốt chủ ý của tác giả.
Hai là kinh nói : người đã phát nguyện thì đã sinh rồi nghĩa là đã ở Tịnh độ rồi thì hãy sống như một cư dân tịnh độ nghĩa là Niệm Phật, Niệm Pháp , Niệm Tăng, cũng có nghĩa là thực hành Bát Chánh Đạo ngày đêm liên tục không dừng nghỉ. Một đời sống như vậy thì không còn những sự khổ chỉ hưởng toàn vui, cái vui nội tâm của Sơ thiền , Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền. Phải chăng đó chính là Tây phương cực lạc hiện tiền ngay bây giờ và tại đây đâu chờ sau khi chết mới vãng sanh. Một chủ ý khác nữa của kinh là dùng câu niệm Nam mô A di đà phật để cho tâm bớt loạn động, tạo nhân duyên cho sự tu tập Bát Chánh Đạo. Và những ai đã niêm Phật A di đà và phát nguyện vãng sinh rồi thì hãy tiến tu Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo.
G – Kết luận : Bát Chánh Đạo là con đường độc nhất, pháp môn tu độc nhất giúp cho chúng sanh diệt trừ phiền náo, chấm dứt khổ ưu ,thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết bàn.
Trong tác phẩm Cư Trần Lạc Đạo vua Trần Nhân Tông đã viết:
Tịnh độ là lòng trong sạch, chứ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di đà là tính sáng soi,mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Nghĩa là khi lòng trong sạch, không còn tham sân si, sầu bi khổ ưu não, khi mà Trí tuệ đã sáng soi, liễu tri tất cả pháp thì đâu còn đi tìm Tây phương cực lạc
Trong tác phẩm Tứ Diệu Đế với song ngữ Anh – Việt của Đat Lai Lat Ma, Ngài đã viết: Mặc dù sự thực hành của tôi kết quả rất kém cỏi, nhưng tôi chỉ thấy nó có kết quả khi tôi thực hành Tứ Diệu Đế và Bồ Đề Tâm. Còn khi tôi quán tưởng các vị thần ( thực hành Mật Tông ), tôi cảm nhận như là đang tự lừa đối mình. Đạt lai Lat ma là lãnh tụ tinh thần của Phật giáo và dân tộc Tây tạng, Ngài là vị có thẩm quyền về Mật Tông nhưng Ngài đã thổ lộ như vậy về Mật Tông. Đây là một con người chân thật và dũng cảm phi thường và Ngài cũng nhận ra Bát Chánh Đạo là con đường độc nhất đưa đến chấm dứt Khổ.