Năng kiến và sở kiến hay nói tắt là Năng và Sở là những thuật ngữ Phật học bằng tiếng Hán nhưng nếu hiểu theo tiếng Việt thì Năng kiến là Cái biết và Sở kiến là Cái bị biết hay Đối tượng của Cái biết
A- Cái biết không phải chỉ có một loại mà nó có hai loại: Cái biết trực tiếp giác quan và cái biết Ý thức mà trong Tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính. Trong Cái biết trực tiếp giác quan lại có sáu cái tương ứng với các giác quan: Nhãn thức ,Nhĩ thức ,Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và Tưởng thức gọi là nhóm Tưởng hay Tưởng uẩn.
1- Cái biết trực tiếp giác quan phát sinh do sáu căn tiếp xúc với sáu trấn (duyên). Mắt duyên Sắc trần phát sinh Nhãn thức, Tai duyên Thanh trần phát sinh Nhĩ thức ,Mũi duyên Hương trần phát sinh Tỉ thức, Lưỡi duyên Vị trần phát sinh Thiệt thức, Thân duyên Xúc trần phát sinh Thân thức, Ý duyên pháp trần phát sinh Tưởng thức. Một cách khác gọi cái biêt trực tiếp này là Thấy (nhãn thức ), Nghe (nhĩ thức), Cảm nhận (tỉ thức,thiệt thức ,thân thức ,tưởng thức). Một cách nói khác là Tưởng tri đối tượng (cái biết Tưởng )như trong Một só Kinh định nghĩa Tưởng là nhận biết đối tượng tức cũng đồng nghĩa với thấy nghe cảm nhận đối tượng.
Đây là cái biết như thực đối tượng ở cấp độ cảm tính, một cái biết không tri thức khái niệm, không phân biệt đối đãi, không ngôn từ chế định, không do học hỏi mà có mà người hay súc vật đều có .Trong cái biết trực tiếp giác quan này không có khái niệm to nhỏ, vuông tròn,dài ngắn,xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mền thô mịn …không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp,không có khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới, không có khái niệm vô minh cũng như hết vô minh, không có khái niệm khổ tập diệt đạo..
Có thể hình dung ra nó là cái Thấy ,Nghe, Cảm nhận của một đứa trẻ mới đẻ ra tức thì, nó vẫn Thấy Nghe ,Cảm nhận các đối tượng nhưng không có biết đó là cái gì. Đây chính là Nhận thức cảm tính hay Cái biêt trực tiếp giác quan thuần tuý vì khi đó chưa có cái biết Ý thức xen vào. Đối với Nhận thức cảm tính này Thánh hay Phàm đều như nhau. Đối với người Phàm nó được gọi là Cái biết tực tiếp, Nhận thức cảm tính hay Tưởng tri còn đối với bậc Thánh thì gọi là Tỉnh Giác, là Thắng tri hay Không tánh.
2- Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính phát sinh do Tư duy tìm hiểu ,xác định đối tượng được thấy ,nghe, cảm nhận là gì, đối tượng đó dễ chịu ,khó chịu hay trung tính. Hành vi Tư duy là: phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán,kết luận,trừu tượng ,khái quát, nhưng hiểu một cách cơ bản là phân tích so sánh lượng thông tin của Cái biết trực tiếp với lượng thông tin về các đối tượng đã được biết trong quá khứ được lưu giữ trong “kho chứa”.Hành vi Tư duy xẩy ra được ,phải do một hành vi là Niệm được hiểu như một công cụ dò tìm thông tin cần thiết vì lượng thông tin trong kho chứa quá lớn không thể nào đối chiếu với tất cả được. Ví như trên mạng ,lượng thông tin khổng lồ được lưu trong các máy chủ, khi cần tìm thông tin gì ,người đó ấn Tìm kiếm thì lập tức “công cụ dò tìm”sẽ tìm kiếm trong các máy chủ và cung cấp thông tin đó. Như vậy Niệm và Tư duy sẽ làm phát sinh hiểu biêt về đối tượng và đó là Cái biết Ý thức. Cái biết trực tiếp xẩy ra nơi các giác quan bên ngoài còn Niệm ,Tư duy, Ý thức phát sinh do Ý tiếp xúc với Pháp trần( tức lượng thông tin trong kho chứa ). Nội dung của Ý thức phản ánh nội dung của các thông tin trong kho chứa, tức là những hiểu biết,kinh nghiệm ,thói quen, xu hướng của người đó trong quá khứ đã được lưu trong kho chứa (còn được gọi là nghiệp )và như vậy Ý thức của người này khác với người kia, Thánh khác với Phàm ,loài người khác loài vật ,giữa các loài vật cũng hoàn toàn khác nhau. Sự khác nhau của Ý thức do hai nguyên nhân:
Thứ nhất do lượng thông tin trong kho chứa phản ánh hiểu biết ,kinh nghiệm ,xu hướng … của con người trong quá khứ khác nhau nên Ý thức trong hiện tại sẽ khác nhau. Ví như một người ăn mắm tôm khen ngon ,người khác thì xem là ghê tởm bởi những thông tin này đã lưu trong kho chứa từ trước. Ba anh thanh niên cùng thấy một cô gái nhưng một người cho là đẹp ,người thứ hai cho là xấu còn người thứ ba cho là không đẹp không xấu vì lượng thông tin về lĩnh vực đó trong kho chứa của ba người khác nhau.
Thứ hai do Niệm kích hoạt loại thông tin nào thì Tư duy sẽ đối chiếu với thông tin đó mà phat sinh Ý thức sai khác. Ví như một người đang thân thiết với một người khác thì lúc đó Niệm chỉ kích hoạt các thông tin tốt đẹp của người này ( tuy trong kho chứa vẫn đầy đủ cả thông tin tốt đẹp cũng như xấu xa của người đó )nên Ý thức xem là người tốt nhưng khi giận dữ người đó thì Niệm chỉ kích hoạt những thông tin xấu xa nên Ý thức xem là người xấu.
a- Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính của người Phàm : hiểu biết của con người là hiểu biết không đúng như thật các sự vật, hiện tượng (các pháp )trong đó có hiểu biết không đúng như thật về Khổ, Nguyên nhân Khổ, về Khổ Diệt và Con đường đưa đến Khổ Diệt gọi là Vô minh, chấp thủ một cái Ta là chủ nhân, chủ sở hữu của Danh và Sắc nên có các tư tưởng : cái này là của Ta, là Ta. Những thông tin Vô Minh, Ta của Ta này được cài đặt trong kho chứa và là thông tin nổi trội nhất trong kho chứa nên khi Niệm khởi lên bao giờ cũng kích hoạt thông tin Vô Minh ,Ta của Ta trước nhất và Tư Duy sẽ đối chiếu với các thông tin đó nên nội dung của cái biết Ý thức xuất hiện một cái Ta chủ nhân,chủ thể biết ,xuất hiện nội dung của Ta, Ta hơn, Ta kém ,Ta bằng. Nội dung này Kinh thường đề cập là Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Vậy Ý thức hay Nhận thức lý tính của kẻ Phàm chấp Ngã ,không đúng sự thật nên gọi là Vô Minh, Vọng tưởng. Kẻ Phàm sống với : Ta thấy ,Ta nghe,Ta cảm nhận ,Ta nhận thức,Ta nói ,Ta làm, Ta ăn,Ta tạo nghiệp,Ta đi, Ta đứng … Chính do Niệm và Tư duy đưa đến Ý thức Vô Minh, Vọng tưởng này nên Niệm này là Tà Niệm ,Tư duy này là Tà Tư Duy và Ý thức này là Tà Tri Kiến. Lộ trình tâm đưa đến Ý thức Vô Minh này là Bát Tà Đạo và nó là Vọng Tâm.
b- Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tinh của vị Hữu học (đang học và tu Đạo ): Đối với vị Hữu học đã có Văn Tuệ nghĩa là nghe giảng hoặc nghiên cứu lời dạy của Đức Phật mà có hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi ,hiểu biết đúng như thật về Vô Thường ,Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo và các thông tin đó được lưu vào kho chứa gọi là Minh. Như vậy trong kho chứa của vị Hữu học có cả hai loại thông tin Vô minh và Minh. Nếu vị Hữu học tu tập Tứ Niệm Xứ thì Niệm sẽ kích hoạt Minh và Niệm như vậy gọi là Chánh Niệm ,do đó Tư Duy sẽ đối chiếu với Minh chứ không đối chiếu với Vô Minh nên đưa đến Cái biết Ý thức đúng như thật gọi là Chánh Tri Kiến không còn Ngã kiến ,Ngã sở kiến ,Ngã mạn tuỳ miên. Như vậy khởi lên Chánh Tri Kiến của vị Hữu học là phải có Chánh Niệm ,Chánh Tư Duy. Nếu vị đó ngưng thực hành Tứ Niệm Xứ,lúc đó Chánh Niệm không có mặt thì Tà Niệm khởi lên sẽ kích hoạt Vô Minh và Tà Tư Duy sẽ so sánh ,đối chiếu với Vô Minh đưa đến Ý Thức là Tà Tri Kiến.
c- Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính của vị Vô học tức vị A La Hán: Đối với một vị A La Hán ,Minh hay Trí Tuệ đã được tu tập ,đã được làm cho viên mãn nên Minh đã xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh trong kho chứa nên Niệm chỉ có một nội dung duy nhất là Minh nên luôn luôn là Chánh Niệm nên Ý Thức luôn luôn là Chánh Tri Kiến. Đây chính là Chân Tâm.
Như vậy Năng Kiến của người Phàm và bậc Thánh có sự giống nhau :.Cái biết trực tiếp giác quan hay Tưởng (sự nhận biết đối tượng) Thánh Phàm đều như nhau nhưng cái biết đó của bậc Thánh có tên gọi khác là Tỉnh Giác hay Thắng tri hay Không tánh. Nhưng Năng Kiến của Phàm và Thánh có sự khác nhau ở cái biết Ý thức: Ý thức của người Phàm thì chấp Ngã ,nghĩa là có Ngã kiến ,Ngã sở kiến ,Ngã mạn tuỳ miên. Ý thức của bậc Thánh không có chấp Ngã nên không có Ngã kiến ,Ngã sở kiến ,Ngã mạn tuỳ miên.
B- Cái bị biết hay cái được biết hay đối tượng của cái biết đều đồng một nghĩa và cũng là Sở Kiến: đối tượng của cái biết có ba loại gồm :đối tượng của Cái biết trực tiếp ,đối tượng của Ý thức Tà Tri Kiến và đối tượng của Ý thức Chánh Tri Kiến.
1- Đối tượng của Nhận thức cảm tính : Cái biết và Cái được biết đều phát sinh do sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần cụ thể:
– Nhãn xúc phát sinh: Cảm giác hình ảnh – Nhãn thức
– Nhĩ xúc phát sinh: Cảm giác âm thanh – Nhĩ thức
– Tỉ xúc phát sinh: Cảm giác mùi – Tỉ thức
– Thiệt xúc phát sinh : Cảm giác vị – Thiệt thức
– Thân xúc phát sinh : Cảm giác xúc chạm – Thân thức
– Ý xúc phát sinh : Cảm giác pháp trần – Tưởng thức
Nếu viết gộp thành một công thức tổng quát sẽ là:
Xúc – Thọ ( Cảm giác ) – Tưởng.
Ở đây Tưởng là sự nhận biết đối tượng và đối tượng được nhận biết chính là Thọ (Cảm giác ).Trong kinh Mật Hoàn thuộc Trung Bộ Kinh có khẳng định : Những gì có Thọ thời có Tưởng tức Thọ và Tưởng là hai quả đồng thời khi Căn Trần tiếp xúc. Cụ thể đối tượng của nhãn thức là Cảm giác hình ảnh tức Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải Nhãn thức thấy Sắc trần. Đối tượng của nhĩ thức là Cảm giác âm thanh tức Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải Nhĩ thức nghe Thanh trần .Đối tượng của Tỉ thức là Cảm giác mùi tức Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi chứ không phải Tỉ thức nhận biết Hương trần. Đối tượng của Thiệt thức là Cảm giác vị tức Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị chứ không phải Thiệt thức biết Vị trần. Đối tượng của Thân thức là Cảm giác xúc chạm tức Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm chứ không phải Thân thức biêt Xúc trần. Đối tượng của Tưởng thức là Cảm giác pháp trần nghĩa là Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần chứ không phải biết Pháp trần .Quán sát sự thật để biết rõ đối tượng của nhận thức cảm tính,của cái biết trực tiếp giác quan hay Tưởng ( sự nhận biết đối tượng )là các Cảm giác (hay Cảm thọ gọi tắt là Thọ )là Tâm chứ không phải là Cảnh (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần ).Quán sát sự thật này để thấy hiểu biết của nhân loại là Tâm biết Cảnh tức Nhãn thức thấy Sắc trần ,Nhĩ thức nghe Thanh trần ,Tỉ thức nhận biết Hương trần,Thiệt thức nhận biết Vị trần ,Thân thức nhận biết Xúc trần,Tưởng thức nhận biết Pháp trần là không đúng sự thật,là Vô minh. Vô minh căn bản hay Vô Minh gốc là không biết như thật về sáu xúc xứ nên trong Kinh Năm Ba thuộc Trung Bộ Kinh đức Phật đã khẳng định: Vô thượng tịch tĩnh,tối thắng đạo được Như Lai chánh đẳng giác sau khi như thật Tuệ tri Sáu Xúc Xứ.
2- Đối tượng của Nhận thức lý tinh hay Ý thức: là những hiểu biết( nhận thức )về các đối tượng của Nhận thức cảm tính, xác định nó là cái gì ,tính chất như thế nào … Những hiểu biết này được gọi là Pháp trần. Ở đây có một sự vi tế cần phải quán sát để thấy rõ. Năm Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân) tiếp xúc Năm Trần phát sinh năm Cảm thọ và năm cái biết trực tiếp nhận biết năm Cảm thọ ,rồi lượng thông tin đó được truyền dẫn vào các tế bào thần kinh não bộ. Tại đấy sẽ xẩy ra sự tiếp xúc (Xúc) giữa các lượng thông tin mà phát sinh Niệm ,Tư Duy và sẽ phát sinh Ý thức. Ý thức là cái biết ,biết các thông tin về đối tượng do Tư duy phát sinh ra,tức hiểu biết về đối tượng gọi là Ý thức biết Pháp trần. Đây là quá trình xử lý các thông tin từ năm giác quan từ bên ngoài vào, và quá trình này phát sinh Ý thức và Pháp trần. Ngoài năm Căn tiếp xúc Năm Trần thì bên trong, nội trong tế bào thần kinh não bộ xấy ra Ý tiếp xúc với Pháp trần ,thực chất là Ý tiếp xúc với lượng thông tin Pháp trần được lưu trong ADN của tế bào thần kinh não bộ. Nội xúc này sẽ phát sinh Cảm giác pháp trần và Tưởng thức ( Cảm giác pháp trần là đối tượng nhận biết của Tưởng thức) và quá trình xử lý các thông tin này tiếp tục tương tự như lượng thông tin từ các giác quan bên ngoài đưa vào. Như vậy Ý tiếp xúc với Pháp phát sinh Cảm giác pháp trần và Tưởng thức cũng phát sinh Pháp trần và Ý thức. Các lộ trình này được diễn tả:
Xúc – Thọ (Cảm giác) – Tưởng – Niệm – Tư duy – Ý thức.
Như vậy Niệm và Tư duy khởi lên là để tìm hiểu về Cảm giác hay Thọ nên nội dung của hiểu biết đó là về Thọ chứ không phải là về Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần, không phải là một thế giới khách quan bên ngoài.
a- Sở kiến hay đối tượng nhận thức lý tính của người Phàm :Hiểu biết của người Phàm là cái biết là của các Căn và cái được biết là Cảnh ( cái biết Thiệt thức là của Lưỡi biết vị ngon dở của Thức ăn )nghĩa là Mắt thấy Sắc trần ,Tai nghe Thanh trần, Mũi ngửi Hương trần, Lưỡi nếm Vị trần, Thân biết Xúc trần, vì vậy Sở kiến hay đối tượng của Nhận thức Lý tinh là Thế giới. Điều này có nghĩa là con người chủ quan nhận thức về một Thế giới khách quan hay Thế giới khách quan được phản ánh trong Ý thức chủ quan của con người. Với Sở kiến này thì tất cả các sự vật hiện tượng mà thuật ngữ Phật học gọi là các Pháp đều thuộc về Thế giới khách quan tách biệt ,đối lập với Chủ thể nhận thức. Đây gọi là Nhị Nguyên ,Tâm và Cảnh hay Tâm và Vật. Tất cả các pháp như to nhỏ ,vuông tròn ,dài ngắn ,xanh vàng đỏ trắng ,cứng mền ,thô mịn,mặn ngọt chua cay, đất nước gió lửa, không gian thời gian …đều là Thế giới khách quan.
Từ Sở kiến này sẽ phát sinh hai quan điểm : Một là các Pháp là thường hằng ,thường có ,không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này thành vật khác,từ trạng thái này sang trạng thái khác. Hai là các Pháp là không có thật mà chỉ do một năng lực Tâm Linh tuyệt đối sáng tạo ra, các Pháp do Tâm tạo. Ví dụ : khi mắt tiếp xúc với cây mía phát sinh cảm giác hình ảnh và nhãn thức, sau khi nhãn thức thấy cảm giác hình ảnh Ý thức khởi lên biết cây mía này ngọt. Với hiểu biết này ngọt là một pháp là Vật chất, ngọt thường trú trong cây mía, ngọt là của cây mía ( ngọt Hữu Chủ ). Khi cây mía bị ép ra nước mía thì ngọt lại thường trú trong nước mía, khi nước mía được nấu thành đường thì ngọt thường trú trong đường, đưa đường làm ra kẹo bánh thì ngọt thường trú trong kẹo bánh, khi nước mía lên men thành giấm thì ngọt không mất đi mà nó biến đổi thành chua mà thôi …Như vậy ngọt không tự nhiên sinh ra ,không tự nhiên mất đi mà chỉ thay đổi từ vật này sang vật khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác, nó không sinh không diệt và luôn luôn có chủ sở hữu nó.Đây gọi là Thường Kiến và Ngã Kiến ( Hữu Chủ ). Nhưng tại đây cũng có một số người quan sát sự thật ,họ thấy nếu một người khoẻ mạnh khi lưỡi của họ tiếp xúc với cây mía thì cảm nhận vị ngọt nhưng khi người đó đau bệnh nhiều ngày thì cũng cây mía đó họ cảm nhận vị đắng. Sự thật này chứng tỏ ngọt không thường trú trong cây mía và những người đó phát sinh một quan điểm khác : ngọt ở nơi Tâm ,ngọt do Tâm sinh .Từ nhận xét này mà họ trừu tượng và khái quát lên ,trở thành một quan điểm Duy Tâm: các Pháp Duy Tâm tạo nghĩa là tất cả các sự vật hiện tượng do một Thượng đế toàn năng, một Chân Tâm Thường Trụ, một Đại Ngã sáng tạo ra. Đây là Đoạn Kiến và Ngã Kiến.
Với Sở kiến đối tượng được thấy,được nghe ,được cảm nhận ,được nhận thức là Cảnh thì Khổ Tập Diệt Đạo là Cảnh ,thường hằng ,thường trú nơi Cảnh và Hữu Chủ ( Hữu Ngã ) nghĩa là Khổ và Nguyên nhân Khổ là những hoàn cảnh khó chịu,tồi tệ. Sự chấm dứt Khổ là các hoàn cảnh dễ chịu, tốt đẹp. Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống. Có một cái Ta là chủ nhân ,chủ sở hữu của các pháp đó.
Thường Kiến và Ngã Kiến hoặc Đoạn Kiến và Ngã Kiến là các hiểu biết không đúng sự thật về các Pháp, không liễu tri các Pháp gọi là Vô Minh. Lộ trình phát sinh Vô Minh diễn ra như sau:
Xúc – Thọ – Tưởng – Tà Niệm – Tà Tư Duy – Tà Tri Kiến
b- Sở kiến hay đối tượng nhận thức lý tính bậc Thánh : Bậc Thánh Tuệ tri Lý Duyên Khởi nên biết rằng :đối tượng của nhận thức cảm tính là các cảm giác nghĩa là nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải thấy Sắc trần ,Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải nghe Thanh trần, Tỉ thức nhận biết Cảm giác hương trần chứ không phải Hương trần, Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị chứ không phải Vị trần, Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm chứ không phải Xúc trần, Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần chứ không phải Pháp trần. Chính vì vậy mà Ý thức là sự nhận thức, sự hiểu biết về các Cảm giác hay các Cảm thọ chứ không phải là thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Với Sở kiến như vậy thì tất cả pháp như to nhỏ,vuông tròn ,dài ngắn,xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, đất nước gió lửa, không gian thời gian … đều là Các Cảm thọ hoặc tính chất của Cảm thọ. Các Danh pháp khác như Niệm ,Tư duy tìm hiểu đối tượng, Thái độ ,Phản ứng với đối tượng cũng là đối với Thọ. Khi tư duy tìm hiểu đối tượng ( Thọ ) đưa đến cái biết Ý thức, là hiểu biết về Thọ sẽ có nhu cầu phân biệt Thọ này với Thọ kia, sẽ có nhu cầu truyền thông về các hiểu biết đó nên các ngôn từ đặt tên các Thọ và đặt tên các tính chất của Thọ phát sinh. Ví như để truyền thông và để phân biệt Cảm giác hình ảnh này với Cảm giác hình ảnh kia mà xuất hiện các ngôn từ khái niệm to nhỏ ,vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng … Các khái niệm không gian ,thời gian phát sinh trong quá trình tư duy để phân biệt cảm thọ này với cảm thọ kia theo chiều không gian và thời gian. Tất cả những ngôn từ ,khái niệm ,tri thức ,hiểu biết là về Thọ và các Danh pháp khác là về Tâm, chính những cái đó là Tâm chứ không phải là Thế giới sắc pháp hay thuộc tính của sắc pháp. Vì hiểu biết của người Phàm là Vô minh không biết rõ sự thật nên áp đặt cho cái đó là Cảnh là Thế giới. Có con người chủ quan và Thế giới khách quan tiếp xúc ( tương tác ) với nhau mà phát sinh ra Thế giới cảm giác và những gì được thấy nghe cảm nhận, nhận thức là Thế giới cảm thọ chứ không phải là Thế giới khách quan. Khoa học ngày nay với những phương tiện đo đếm rất tinh xảo nên cũng phát hiện ra rằng: kết quả quan sát được không chỉ phụ thuộc đối tượng được quan sát mà còn phụ thuộc cả vào người quan sát. Như vậy khoa học đã phần nào tiến đến gần sự thật tức kết quả quan sát được là về Cảm thọ chứ không phải về Thế giới. Với Sở kiến này thì các pháp là Tâm và nó Vô thường ,Vô chủ ( Vô ngã ). Ví như ngọt và cây mía : Có cây mía là một nhân và lưỡi là nhân thứ hai nhưng chưa tiếp xúc với nhau thì chưa có cái ngọt nào cả. Khi Lưỡi tiếp xúc với Mía ( đã được chẻ ra ) thì phát sinh Cảm giác vị ngọt mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được. Đây mới là cái ngọt thực và nó là Cảm giác, là Tâm chứ không phải Vật. Xúc sinh cảm giác vị ngọt sinh, Xúc diệt cảm giác vị ngọt diệt. Vậy cảm giác vị ngọt Vô thường ,cảm giác vị ngọt không thường trú ,không thường hằng trong cây mía. Cảm giác vị ngọt cũng Vô chủ nghĩa là Lưỡi không là chủ nhân, chủ sở hữu, Mía cũng không là chủ nhân ,chủ sở hữu của Cảm giác vị ngọt. Như vậy ngọt là Tâm và nó Vô thường ,Vô chủ ( Vô ngã ). Phải lưu ý rằng vị ngọt là một từ ám chỉ một pháp là Cảm giác vị ngọt ,là Tâm nhưng là do Căn Trần tiếp xúc phát sinh ra chứ không phải là do Tâm tuyệt đối nào tạo ra cả.
Với Sở kiến như vậy thì Khổ Tập Đạo là Tâm chứ không phải Cảnh .Khổ , Nguyên nhân Khổ là các Danh pháp trên lộ trình Tâm Bát Tà Đạo ,Con đường chấm dứt Khổ là lộ trình Tâm Bát Chánh Đạo và những pháp này đều Vô thường ,Vô ngã. Riêng Khổ Diệt hay Niết Bàn là sự vắng mặt của cả Danh và Sắc, sự trống không cả Tâm và Cảnh chỉ có Chánh Kiến trên Bát Chánh Đạo tuệ tri được, và điều này nói lên sự kiện chứng ngộ Niết bàn chỉ xẩy ra trên lộ trình Tâm Bát Chánh Đạo. Lộ trình này xẩy ra như sau :
Xúc – Thọ – Tưởng – Chánh Niệm – Chánh Tinh Tấn – Chánh Định – ( Tĩnh Giác ) – Chánh Tư Duy – Chánh Tri Kiến.
C- Kết luận : Năng kiến của người Phàm có Ngã kiến ,Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên và Sở kiến là về Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần nên người Phàm chấp thủ về Bản ngã và Thế giới với 62 luận chấp mà Kinh Phạm Võng ( Bản kinh đầu tiên của Trường Bộ Kinh ) đã liệt kê. Thế giới là thường hay vô thường, hay một phần là thường,phần còn lại là vô thường ,thế giới là hữu biên hay vô biên, thế giới là có thật hay không có thật, thế giới chỉ là vật chất hay thế giới chỉ là tinh thần, thế giới ( vũ trụ ) là trời tròn đất vuông ,hay thế giới là cửu sơn bát hải có một trục là núi Tu Di ở giữa, hay thế giới là tam thiên đại thiên, thế giới có bao nhiêu tầng trời ,bao nhiêu tầng địa ngục, hay thế giới phát sinh từ vụ nổ lớn Bing Bang … Tất cả những quan điểm ấy là sự duy diễn từ các luận chấp mà kinh Phạm Võng đã liệt kê: Thường trú luận ,một phần thường trú luận một phần vô thường luận, hữu biên hoăc vô biên luận, nguỵ biện luận, vô nhân luận hoăc đoạn diệt luận. Với Sở kiến đó họ cho rằng chúng sinh biết Thế giới với cái biết hữu hạn còn Chư Phật thì biết Thế giới với cái biết vô hạn .Ngài biết Thế giới theo không gian là toàn thể tam thiên đại thiên thế giới, theo thời gian là từ vô thuỷ đến vô chung, Ngài thấu triệt mọi cảnh giới, mọi tầng trời, Thấy Biết của Ngài luôn luôn hiện hữu khi đi đứng nằm ngồi cả khi thức cũng như khi ngủ. Những hiểu biết như vậy không đúng sự thật, nó là Tà Kiến ,là Thường Kiến hoặc Đoạn Kiến và Ngã Kiến. Trong Kinh Phạm Võng Ngài đã khẳng định: Những chủ trương ấy là kinh nghiệm (hiểu biết ) cá nhân là sự không thấy không biết các cảm thọ của các Sa môn, Bà la môn, là sự kích thích,dao động ,xuyên tạc sự thật của gnhững vị bị tham ái chi phối. Ngài khẳng định: Những sở kiến ấy, những chấp trước như vậy, sẽ đưa đến các cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy. Như Lai Tuệ tri như vậy và Ngài Tuệ tri hơn thế nữa và Ngài không chấp trước Sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài Như Thật Tuệ Tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của các Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ Tuệ tri như vậy ,này các Tỷ kheo , Như Lai được giải thoát hoàn toàn ,không có chấp thủ. Như vậy Như Lai giác ngộ là giác ngộ các Cảm Thọ chứ không phải là giác ngộ về Thế Giới, không phải là giác ngộ Thế giới là thế này hay như thế kia. Và như vậy Sở kiến của Như Lai là về Thọ chứ không phải là Thế Giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần.
Sở kiến như vậy đưa đến sự hiểu biết như thật về Khổ Tập Diệt Đạo ,đưa đến sự Giác Ngộ Tứ Thánh Đế. Cũng trong kinh Phạm Võng Ngài khẳng định rằng: Các Sa môn ,Bà la môn luận bàn về quá khứ tối sơ,luận bàn về tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ vào quá khứ tối sơ và tương lai đề xướng nhiều sở kiến sai khác với 62 luận chấp. Tát cả những vị có chủ trương như trên là do sự xúc chạm ( Xúc ) của sáu xúc xứ. Do duyên Xúc mà Thọ phát khởi ,Do duyên với các Cảm thọ mà Tham ái phát khởi, do duyên tham ái mà thủ phát khởi ,do duyên thủ mà hữu phát khởi ,do duyên hữu sanh phát khởi, do duyên sanh mà già chết sầu bi khổ ưu não phát khởi. Này các Tỷ kheo, khi Tỷ kheo như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt ,những nguy hiểm và sự xuất ly của sáu chổ xúc xứ, vị ấy sẽ có sự hiểu biết vượt ra ngoài những điều trên.