THỨC TÁI SANH LÀ HOÁ SANH ( phần hai )
3 – Hai phương thức trao truyền lượng thông tin “tái sinh” : Nhân bản vô tính và Thức tái sinh.
a – Nhân bản vô tính : tương tự như thực vật là sinh sản vô tính. Nghĩa là lấy một tế bào gốc một con vật, thậm chí là con người từ đó bằng nhân bản vô tính mà sản sinh ra một con vật hoặc một con người giống hệt con vật hoặc cho người được lấy tế bào, một bản sao. Trường hợp này tế bào được nhân bản đó đã có phần vật chất gọi là Sắc pháp giống như phần vật chất trứng và tinh trùng, còn lượng Thông Tin Di Truyền và Thông Tin về Tâm đã có sẵn trong ADN của tế bào. Trong trường hợp ghép tạng thì lượng Thông Tin Di Truyền và Thông Tin Về Tâm có trong phần nội tạng được ghép sẽ được truyền dẫn từ người cho sang người nhận. Thực tế đã cho thấy ghép tạng cho dù là bộ phận nào, thậm chí cả truyền máu đều làm thay đổi Di Truyền và thay đổi Tính Cách nhiều ít tuỳ bộ phận cấy ghép. Điều này thể hiện lượng thông tin Di Truyền ở các tế bào có thể giống nhau, nhưng lượng Thông Tin Về Tâm thì ở các bộ phận khác nhau của cơ thể có khác nhau. Ví như khi sáng chế ra một bàn tay giả cảm ứng sinh học có thể cầm nắm một vật theo “tác ý” của não bộ, thì các bộ phận của bàn tay giả phải hoạt động tuần tự từ cái này đến cái kia theo một thứ tự đã được lập trình và lập trình này là những phần mền được cài đặt. Khi thông tin tác ý cầm nắm phát sinh nơi não bộ, được truyền dẫn đến phần mền cài đặt, sẽ xẩy ra sự tương tác giữa hai loại thông tin và kết quả lập trình đã được cài đặt vận hành, làm phát sinh hành vi cầm nắm của bàn tay giả. Cũng y như vậy trong các tế bào khác nhau của cơ thể có rất nhiều lập trình khác nhau được lưu giữ. Ví nhứ khi tác ý cầm nắm thì lượng thông tin tác ý cầm nắm phát sinh trong ADN của tế bào thần kinh não bộ, sẽ được truyền dẩn đến ADN các tế bào tay, phát sinh tương tác giữa lượng thông tin đó với các thông tin là các lập trình về chuyển động của các ngón tay làm phát sinh hành vi cầm nắm. Lượng thông tin là các lập trình này như là một phần mền trong máy vi tính ở bàn tay khác với nơi cổ tay, khác với nơi cánh tay, khác với nơi chân, khác với nơi họng vì lập trình nơi họng phát ra lời nói, khác với nơi tim, phổi, thận, dạ dày, ruột… Thông tin các lập trình trong ADN tế bào tim chuyên về phát sinh cảm giác tình cảm yêu đương giận hờn, đau khổ, nơi dạ dày chuyên về phát sinh cảm giác căng thẳng, nơi ruột chuyên về phát sinh cảm giác lo lắng… Thông tin trong ADN trong tế bào thần kinh não bộ chuyên về phát sinh các hành vi như Niệm, Tư Duy, Ý thức, Tham Sân Si, Dục ,Định … Lượng thông tin đi tái sinh từ người chết là lượng Thông Tin Di Truyền và Thông Tin Về Tâm chứa trong ADN của tế bào thần kinh não bộ, không phải là lượng thông tin trong các tế bào khác của cơ thể.
b – Thức tái sinh : Lượng Thông Tin Di Truyền và Thông Tin Về Tâm chứa trong ADN của tế bào thần kinh não bộ người chết đi đến gặp trứng kết hợp với tinh trùng để phát sinh bào thai bằng cách nào, bằng phương tiện nào ? Bản thân lượng thông tin không tự nó tồn tại một mình, nó không thể tự mình di chuyển từ chổ này qua chổ khác mà nó phải “kết hợp” hay tương tác với một loại vật chất nào đó để tồn tại và di chuyển. Ví như khi viết một tin nhắn để gửi đến một điên thoại nào đó thì lượng thông tin trong dòng tin nhắn đó tồn tại trong vật chất là dòng chữ, nó không thể tự mình di chuyển đến điện thoại kia. Khi bấm OK thì điện thoại đó sẽ phát ra một loại sóng điện từ “mang” lượng thông tin đến điện thoại kia. Lượng thông tin được lưu giữ và truyền dẫn đi theo sóng điện từ hay sóng ánh sáng được sử dụng phổ biến hiện nay, đặc biệt là ánh sáng, một loại vật chất mang lưỡng tính sóng hạt ( lượng tử ) có thể mang được một dung lượng thông tin rất lớn. Tương tự như vậy, khi một người hấp hối, đối diện với cái chết thì những thông tin “Hữu Ái” , tham sống, bám vúi sự sống, sợ chết được lưu giữ trong kho chứa từ vô thuỷ, được kích hoạt mãnh liệt và nó là Nhân phát sinh sự đột biến cấu trúc ADN của tế bào thần kinh não bộ ,khi tế bào thần kinh não bộ chết. Cũng theo nguyên lý của Vật lý lượng tử các electron trong cấu trúc ADN đang hoạt động ở mức năng lượng cao, đột ngột hạ xuống mức năng lượng thấp ( khi tế bào não chết ) thì sẽ phát ra các lượng tử. Đây là một loại vật chất vi tế có lưỡng tính sóng hạt( mà sớm muộn gì khoa học cũng sẽ tìm ra )sẽ “mang” lượng Thông Tin Di Truyền và Thông Tin Về Tâm thoát ra khởi thân xác đã chết. Loại vật chất lượng tử vi tế này mang trong nó thông tin của người chết gọi là Thức tái sinh. Như vậy Thức tái sinh có hai thành phần, gồm cả Danh pháp và Sắc pháp nói tắt là Danh và Sắc. Vì Thức tái sinh mang tính sóng nên nó di chuyển được, sự di chuyển của nó tuỳ thuộc vào sự tương tác của lượng thông tin trong nó và lượng thông tin của môi trường, đặc biệt là lượng thông tin trong kho chứa của các chúng sanh khác. Khi có một sự tương hợp đối với thông tin từ trứng và tinh trùng đã kết hợp sẽ xẩy ra sự tương tác của Thức tái sanh và hợp tử trứng tinh trùng đó và do tương tác đó mà phát sinh một bào thai. Để xẩy ra tương tác thì phải có sự tương hợp giữa thông tin của Thức tái sanh và hợp tử trứng tinh trùng, ví như khi máy điên thoại A gọi máy điện thoại B thì thông qua mạng viễn thông, lượng thông tin máy A và máy B có sự tương hợp cho nên sóng máy A chỉ tương tác với máy B chứ không tương tác với một máy nào khác ,cho dù máy A và máy B đặt cạnh nhau hay cách nhau nữa vòng trái đất.
+ Đặc tính của Thức tái sinh: Thức tái sinh không phải là Tâm thuần tuý, mà nó gồm hai phần Vật chất là Sắc và thông tin là Danh, nghĩa là có cả hai phần Danh và Sắc. Trong Thức tái sinh vẫn xẩy ra sự tương tác giữa các lượng thông tin tương tự như tương tác xẩy ra bên trong tế bào thần kinh não bộ giữa Ý và Pháp trần, nên vẫn có các lộ trình tâm, vẫn có cái biết tương tự như Tưởng thức và Ý thức nên gọi là Thức tái sanh. Vì thế ” người chết” vẫn “thấy biết”, vẫn chấp thủ vào thấy biết đó, nên Thức tái sanh chính là một Hoá Sanh. Đối với người sống có sáu loại lộ trình tâm khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, mỗi một lộ trình tâm đều có hai cái biết: cái biết trực tiếp giác quan nhận biết đối tượng còn được gọi là Nhận thức cảm tính và Ý thức hiểu biết về đối tượng còn được gọi là Nhận thức lý tính. Cụ thể là Mắt với Sắc trần thì có Nhãn thức thấy hình ảnh và Ý thức hiểu biết về hình ảnh được thấy, Tai với Âm thanh thì có Nhĩ thức và Ý thức, Mũi với Hương thì có Tỉ thức và Ý thức, Lưỡi với Vị trần thì có Thiệt thức và Ý thức, Thân với Xúc trần thì có Thân thức và Ý thức, Ý với Pháp trần thì có Tưởng thức và Ý thức. Đối với Lộ trình Ý tiếp xúc Pháp trần xẩy ra với các thông tin về tâm trong kho chứa, thì Tưởng thức và Ý thức thấy biết những gì do lượng thông tin trong kho chứa tương tác mà phát sinh ra. Khi con người thức tỉnh sáu loại lộ trình tâm đan xen với nhau, và phân biệt được rõ ràng lộ trình Ý với Pháp xẩy ra nơi nội tâm chứ không phải bên ngoài, nhưng khi năm lộ trình bên ngoài không có mặt thì con người vẩn tưởng lầm những gì đang xẩy ra là ngoại cảnh . Có thể hình dung vấn đề này và biết rõ các đối tượng được thấy biết trong lộ trình tâm này qua thí dụ về thấy biết khi mơ ngủ. Khi mơ ngủ, năm lộ trình tâm bên ngoài không khởi lên nên không có thấy biết những gì bên ngoài đang xẩy ra vì Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân không hoạt động. Lúc này các tế bào thần kinh não bộ chỉ “lơ mơ” nên Ý tiếp xúc với Pháp trần phát sinh cảnh vật và thấy biết cảnh vật đó. Những cảnh vật khi mơ đó không phải là cảnh vật thật đang xẩy ra bên ngoài, mà do lượng thông tin trong kho chứa “biến hiện ra” nhưng người đó vẫn tưởng là cảnh vật thật bên ngoài, vẫn thích, vẫn ghét, vẫn sợ hãi, vẫn lo lắng, vẫn hạnh phúc, khổ đau trong mơ. Đối với Hoá Sanh, lộ trình tâm giống như lộ trình tâm trong mơ, và Hoá Sanh tưởng lầm là những cảnh vật thật bên ngoài.
Ngoài lộ trình tâm do loại vật chất lượng tử vi tế tiếp xúc với lượng thông tin về tâm tương tự như Ý tiếp xúc với Pháp trần khi còn sống, Hoá Sanh còn có một khả năng đặc biệt, đó là Tha tâm thông, khả năng đọc tâm người khác. Vì loại vật chất đặc biệt vi tế mang lưỡng tính sóng hạt ,có thể xuyên qua các vật thể, xuyên qua cơ thể con người, nên Hoá Sanh có khả năng “xâm nhập” kho chứa thông tin người khác, tương tác với lượng thông tin đó làm phát sinh các cảnh vật và Tưởng thức cùng Ý thức thấy biết các cảnh vật đó. Lúc đó nếu người đó thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức gì về đối tượng thì Hoá Sanh cũng thấy y hệt như vậy nhưng là “cảnh ảo” chứ không phải là cảnh thực như người bị xâm nhập. Không những có khả năng đọc tâm người khác mà Hoá Sanh cũng giao tiếp với các Hoá Sanh khác bằng cách tương tự như vậy. Một số hoá sanh có những năng lực mạnh hơn, khi thâm nhập như vậy có thể tác ý và tương tác được với các thông tin trong các lập trình và làm phát sinh lời nói, hành động của người bị thâm nhập theo tác ý của Hoá Sanh.
+ Phân loại Hoá Sanh: Tuỳ theo Nghiệp lực khi còn sống, tức lượng thông tin “Thân hành, Khẩu hành, Ý hành có tác ý” trong kho chứa mà các Hoá Sanh sẽ có năng lực, tính chất và thời gian tồn tại khác nhau. Có thể phân chia các Hoá Sanh thành ba loại chính :
– Loại Hoá Sanh thứ nhất : Hoá Sanh của những người đã tạo tác rất nhiều nghiệp ác cường liệt hoặc những Tà Kiến mãnh liệt : Quá trình hấp hối và chết xẩy ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất người chết vẫn thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức được những gì đang xẩy ra bởi sáu loại tế bào thần kinh vẫn hoạt động, do vẫn xẩy ra sự tiếp xúc giữa sáu Căn và sáu Trần. Giai đoạn thứ hai là khi năm loại tế bào thần kinh ngưng hoạt động chỉ còn tế bào thần kinh não bộ hoạt động nên không thấy biết gì về bên ngoài mà chỉ có một lộ trình tâm Ý tiếp xúc với Pháp trần ( tức lượng thông tin lưu giữ trong ADN của tế bào thần kinh não bộ ) và chỉ thấy biết cảnh vật do lượng thông tin ấy biến hiện ra. Khác với giấc mơ, người sắp chết lại rất tỉnh táo, và chỉ có một lộ trình tâm duy nhất nên những “cảnh vật” hiện ra rất sống động, người sắp chết tin rằng đây là những cảnh giới thật đang hiện ra và bao trùm lên là nỗi sợ chết kinh hoàng. Đối với những người đã tạo tác nhiều nghiệp ác cường liệt hay tin tưởng vào những Tà Kiến, vào những thế giới tâm linh, thiên đường địa ngục, âm phủ, Diêm vương, ma quỷ, trừng phạt … thì những Nghiệp đó, những thông tin đã được lưu giữ đó “hoá hiện” rất nhiều cảnh giới khủng khiếp, đáng sợ, đe doạ, xua đuổi, tấn công họ. Hoảng loạn và kinh hoàng, họ không thể nào chạy trốn khỏi những hình thù, những nhân vật quái đản đang tấn công họ. Cho đến khi hơi thở ra cuối cùng châm dứt, cảnh giới ấy vẩn còn diễn ra cho đến khi tế bào nào chết. Lúc đó đột biến xẩy ra làm phát sinh Thức tái sanh tức một Hoá Sanh xuất hiện. Lộ trình tâm của Hoá Sanh lại diễn tiến tương tự như trong thời gian hấp hối, diễn tiến với một sự tiếp nối. Hoá sanh thấy biết và tin rằng mình đang tồn tại, đang bị rơi vào cảnh giới kinh hoàng, khủng khiếp, với nỗi thống khổ vô cùng tận mà không biết rằng những cảnh giới đó là “cảnh ảo” do chính các Ác Nghiệp và Tà Kiến đã được tích tập trong kho chứa trong đời sống trước đây hoá hiện ra. Đối với hạng người này chỉ có duy nhất một cảnh giới như vậy, vì tuy vẫn có khả năng tha tâm thông, có thể thâm nhập tâm người sống để thấy biết các “cảnh ảo” khác, nhưng vì cảnh giới này quá mãnh liệt, nên tha tâm thông không xẩy ra. Diễn tiến như vậy cứ tiếp diễn theo thời gian cho đến khi nào Ác Nghiệp và Tà Kiến cạn kiệt, tức lượng thông tin Ác Nghiệp, Tà Kiến tiêu mòn hết trong thời gian tương tác, thì Hoá Sanh mới tương tác được với một hợp tử trứng và tinh trùng tương hợp. Và do vậy kết thúc khoảng thời gian tồn tại của Hoá Sanh, lượng thông tin còn lại tiếp tục vào Trứng ( sanh ) hoặc Thai (sanh ), tiếp tục một chu kỳ mới. Sự tồn tại một loại Hoá Sanh như vậy được hiểu là Cảnh giới Địa ngục. Sự tồn tại, hay tuổi thọ của Hoá Sanh là bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, hay bao nhiêu trăm năm, ngàn năm tuỳ thuộc nghiệp ác đã tạo tác trước đó.
– Loại Hoá Sanh thứ hai : Hoá Sanh của những người có đời sống chí thiện, thương yêu và giúp đở đồng loại : Đối với hạng người này, trong thời gian hấp hối và tiếp nối là Hoá Sanh do các thông tin về Thiện Nghiệp và hoan hỷ trong các thiện nghiệp nên cảnh giới xuất hiện là những gì đẹp đẽ, an bình và hạnh phúc. Giống như trong một giấc mơ đẹp, hạnh phúc, con người vẩn cảm nhận vui sướng, hạnh phúc trong giấc mơ, thậm chí hạnh phúc trong mơ thường được phóng chiếu lên gấp nhiều lần so với cảnh thực ngoài đời. Tương tự như vậy Hoá Sanh tận hưởng niềm vui sướng, hạnh phúc trong các cảnh ảo ấy và nó mãnh liệt đến nỗi tha tâm thông không khởi lên nên không có thấy biết các cảnh ảo khác qua tâm chúng sanh. Diễn tiến như vậy kéo dài, kéo dài cho đến khi Thiện Nghiệp ấy cạn kiệt, tức lượng thông tin thiện nghiệp do tương tác mà tiêu mòn hết, lúc đó Hoá Sanh mới tương tác với một hợp tử trứng và tinh trùng và chấm dứt tồn tại. Lượng thông tin còn lại vào bào thai, tiếp tục một chu kỳ mới. Cảnh giới này được hiểu là Chư Thiên. Thời gian tồn tại hay tuổi thọ của Hoá Sanh Chư Thiên là bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, hay bao nhiêu ngàn năm tuỳ thuộc vào thiện nghiệp đã tạo tác.
– Loại Hoá Sanh thứ ba : Ngoài hai loại Hoá Sanh với nghiệp quá khứ cực ác hoặc cực thiện, số còn lại được xếp vào loại thứ ba này. Đối với Hoá Sanh loại thứ ba này có hai loại cảnh giới được thấy biết: một là cảnh giới phát sinh trong lộ trình tâm của Hoá Sanh, hai là cảnh giới nhờ tha tâm thông mà thấy biết qua tâm của chúng sanh khác. Cả hai loại cảnh giới được thấy biết này đều là “cảnh ảo”.
Đối với cảnh ảo của Hoá Sanh cũng có cảnh đưa đến vui sướng, hạnh phúc, nhưng cũng có những cảnh đưa đến buồn đau, lo lắng sợ hãi, có những cảnh thân quen đã từng trải qua, cũng có những cảnh xa lạ, khó hiểu, ngỡ ngàng … tất cả xuất hiện một cách vô lối, lan man, không tuân theo một chủ đích nào, giống như trong mơ. Tất cả cảnh giới xuất hiện như vậy đều do các nghiệp thiện ác, do tà kiến và chánh kiến đã tạo tác trong quá khứ mà hoá hiện ra.
Khi Hoá Sanh thâm nhập được” kho chứa thông tin” của một người nào đó, thì người đó thấy, nghe, cảm nhận , hiểu biết về đối tượng như thế nào thì lượng thông tin về đối tượng có ngay trong kho chứa và Hoá Sanh cũng thấy biết đối tượng như vậy nhờ lượng thông tin đó. Không chỉ một người mà Hoá Sanh xâm nhập kho chứa rất nhiều người và không điều khiển được, nên cảnh hiện ra cũng không có một trật tự nào mà hoàn toàn vô lối, và bị trôi dạt từ cảnh ảo này sang cảnh ảo khác. Do như vậy nên Hoá Sanh rất muốn trở về nhà, nhưng rất kinh hoàng khủng khiếp, hoảng loạng giống như một người lạc giữa rừng sâu không tìm thấy đường ra. Đôi lúc Hoá Sanh thâm nhập được kho chứa là người thân và trở về nhà và hoàn toàn thất vọng, tức giận vì không ai nhận ra sự có mặt mình. Hoá Sanh có thể chứng kiến đam tang, những thức ăn cúng giổ cho mình, chứng kiến mọi sự đang xẩy ra. Như đã từng trước đây, như trong một giấc mơ, Hoá Sanh vẫn cồn cào muốn ăn khi thấy món ăn thích thú hàng ngày, vẫn thèm muốn tình dục … vẫn nghỉ là một con người cần phải hưởng thụ như đã sống nhưng bây giờ tất cả là cảnh ảo không thể chạm vào nó được, không thể nào sử dụng được. Mọi tài sản của Hoá Sanh giờ đây đã thuộc quyền người khác, họ cố gắng chạm vào để sử dụng, để giành lại nhưng không chạm vào được. Hãy hình dung ra nỗi khổ đau, tuyệt vọng đến nhường nào. Thử hình dung một người đã từng yêu vợ thiết tha, nay Hoá Sanh đó chứng kiến cô vợ đang giao cấu với người đàn ông khác với tình yêu say nồng, mà hoàn toàn bất lực, không thể phản ứng, không thể dùng một cây gậy để thoã mãn phẫn nộ như khi còn sống. Tha tâm thông làm cho Hoá Sanh có khả năng thấy biết những gì đang xẩy ra nhưng cũng làm cho Hoá Sanh đau khổ khi biết được tâm địa người khác, những người thân, bạn bè không thật lòng, phản bội, âm mưu hảm hại hoặc đang giành giật tài sản của mình.
Các Hoá Sanh có thể thâm nhập kho chứa lẫn nhau nên có thể giao tiếp với nhau theo cách thức tha tâm thông. Các Hoá Sanh cũng có thể thân thiết hoặc dữ dội, xung đột với nhau, đe doạ nhau. Một số Hoá Sanh có nghiệp liên quan đặc biệt với chúng sanh khác, không những thâm nhập được kho chứa thông tin mà còn có thể tác ý, tương tác với các lập trình thông tin về lời nói, hành động làm cho chúng sanh đó nói lên, hay hành động theo điều khiển của Hoá Sanh. Các Hoá sanh đó làm vậy với mục đích tìm kiếm một nơi trú ẩn an toàn, để thoả mãn nhu cầu và ham muốn mà Hoá Sanh không làm được.
Sự tồn tại của Hoá Sanh như vậy là tồn tại trong thống khổ. Sự thống khổ của Hoá Sanh lớn hơn tất cả nỗi thống khổ của Thế gian cộng lại, đó là do nhu cầu và ham muốn cần được thoả mãn vẫn như cuộc sống trước đây nhưng Hoá Sanh KHÔNG HỀ ĐƯỢC THOẢ MÃN MỘT CHÚT NÀO CHO DÙ NHỎ NHẤT. Nỗi thống khổ này là kết quả của nguyên nhân đã tạo tác là khát ái tìm cầu, nắm giữ niềm vui, hạnh phúc, lạc thú ( Dục lạc ) mà quá khứ đã đã vun bồi. Hãy biết rằng, một người càng thành đạt, càng giàu có, càng nổi tiếng, càng nhiều uy quyền khi còn sống thì sự ràng buộc vào khối sở hữu ấy càng lớn lao thì khi chết Hoá Sanh của họ càng nhiều thống khổ bấy nhiêu.
Hoá Sanh thuộc loại thứ ba này rất đa dạng, phức tạp với rất nhiều năng lực khác nhau, rất nhiều chủng loại khác nhau, có sự tương tác với nhau và tương tác với các chúng sinh khác đang còn sống và cùng hiện hữu trong một không gian này chứ không phải tồn tại một thế giới tâm linh siêu hình nào khác. Sự tồn tại của Hoá Sanh có thể vài ba phút, vài ba ngày, hay vài năm, vài trăm năm… không nhất định, mà tuỳ thuộc vào nghiệp đã tạo tác trong quá khứ. Hoá Sanh tồn tại cho đến khi nghiệp đã tạo tác ấy cạn kiệt, lượng thông tin ấy bị tiêu mòn do tương tác, thì Hoá Sanh chấm dứt, lượng thông tin còn lại, nghiệp còn lại, lại vào Thai hoặc Trứng tiếp tục một chu kỳ mới.
4 – Giải thích một số vấn đề thực tiển :
a – Hiện tượng cận tử : Đây là hiện tượng được rất nhiều người nghiên cứu và tranh cải. Những người theo chủ trương duy vật đã phủ nhận hiện tượng này hoặc đưa ra những giải thích hoàn toàn chủ quan không liên quan tới các sự kiện của hiện tượng, không thuyết phục được người đọc. Một số khác, qua hiện tượng này lại đề cao niềm tin có tồn tại một linh hồn, một thế giới tâm linh, một tâm thức không sinh không diệt, tồn tại cả sau khi tế bào thần kinh não bộ chết . Và hoạt động của linh hồn, của tâm thức như vậy là hoàn toàn độc lập với thần kinh não bộ. Niềm tin này dựa vào tư tưởng Duy Tâm của tôn giáo, trong đó có các trường phái của Phật Giáo phát triển, đặc biệt là Mật tông. Người nghe, người đọc hiện tượng cận tử đa phần thiên về tư tưởng Duy Tâm và lại được củng cố đức tin về một linh hồn hoặc một tâm thức không sinh không diệt.
“Hiện tượng cận tử là khi não bộ chết lâm sàng, linh hồn hay tâm thức thoát ra khỏi xác và đi vào một thế giới tâm linh, thấy biết một số sự kiện và khi thân xác hồi sinh trở lại, linh hồn hay tâm thức đó lại nhập trở lại vào thân xác, kể lại những gì đã xẩy ra trong thời gian hồn lìa khỏi xác. Với hiểu biết linh hồn hay tâm thức tồn tại như vậy là thuần tuý tinh thần, không liên hệ với vật chất, họ cũng tin rằng có một thế giới thuần tuý tinh thần, một thế giới tâm linh và khi linh hồn hay tâm thức rời khỏi thể xác thì nó sẽ tồn tại trong thế giới tâm linh ấy và nó sẽ thấy biết không cần bất cứ một giác quan nào”. Thực chất của linh hồn hay tâm thức đó là Thức tái sanh hay Hoá Sanh bao gồm Danh và Sắc như đã trình bày trên. Đó là lượng Thông Tin trong ADN của tế bào thần kinh não bộ ( Danh ) và loại vật chất lượng tử vi tế phát sinh khi tế bào não bộ chết ( Sắc ). Hành vi thấy biết đó không phải là linh hồn hay tâm thức không sinh không diệt, sẵn có, không cần một Nhân Duyên nào sinh ra nó, mà đây là Tưởng thức và Ý thức phát sinh do sự tương tác các lượng thông tin trong “kho chứa” với thông tin của lượng vật chất vi tế đó, tương tự như Ý tiếp xúc với Pháp trần, nó Vô thường và Vô ngã ( Vô chủ ). Đối tượng được thấy biết của Hoá Sanh không phải là một thế giới tâm linh có thật mà là các “cảnh ảo” do các lượng thông tin tương tác mà phát sinh, hoặc là “cảnh ảo” trong tâm thức người sống khác, nó cũng sinh diệt, Vô thường, Vô chủ. Khi thân xác hồi sinh trở lại Hoá Sanh đó lại tương tác với các tế bào thần kinh não bộ tương tự như Hoá Sanh tương tác với hợp tử trứng và tinh trùng và Hoá Sanh diệt. Khi Hoá Sanh diệt, lượng thông tin đó lại được lưu vào ADN của tế bào thần kinh não bộ. Vì thế khi người đó tỉnh lại, họ có thể kể lại những gì đã xẩy ra trong thời gian “chết” bởi những gì thấy biết đều được lưu lại trong kho chứa thông tin của Hoá Sanh và truyền lại não bộ khi hồi sinh lại. Những sự kiện xẩy ra trong khi người đó “chết” vẫn được người đó thấy biết, chính là do khả năng tha tâm thông của Hoá Sanh, thấy biết qua tâm của các Bác sỉ, y tá trong phòng mổ, hoặc những người khác, những Hoá Sanh khác. Hiện tượng một số người tu có thể xuất “hồn” cũng có bản chất giống như hiện tượng cận tử.
b – Hiện tượng gọi hồn, đồng bóng, âm nhập : đây là những hiện tượng xẩy ra phổ biến trong cuộc sống. Bản chất của các hiện tượng này là có Hoá Sanh, có những nghiệp quá khứ tương hợp với những người đó, thì không những Hoá Sanh thâm nhập được kho chứa thông tin,” đọc” được tâm người đó bằng khả năng tha tâm thông mà có thể tác ý, làm phát sinh hoạt động các lập trình thông tin trong kho chứa thông tin, phát sinh ra lời nói, hành động theo sự điều khiển của Hoá Sanh. Những người bị Hoá Sanh thâm nhập và điều khiển như vậy cũng có nhiều mức độ khác nhau. Một số hoàn toàn bị áp đảo đến nỗi các lộ trình tâm không khởi lên được và thân thể hoàn toàn bị điều khiển bởi Hoá Sanh, nên sau khi sự việc kết thúc, người đó hoàn toàn không biết gì về những sự việc vừa xẩy ra. Một số khác không bị áp đảo hoàn toàn, họ vẫn có những nhận thức đan xen, biết một phần sự việc đang xẩy ra, nhưng không hiểu biết được bản chất sự việc. Trường hợp gọi hồn được nhiều người tin tưởng bởi nói ra được một số thông tin của người chết khá chính xác. Thực chất của sự việc đó là người nói ra được một số thông tin khá chính xác là do một Hoá Sanh có năng lực mạnh điều khiển. Những thông tin về người chết được nói ra khá chính xác đó là do Hoá Sanh đọc được trong tâm các thân chủ đi gọi hồn, bởi người đi gọi hồn cho người thân đã chết thì mọi thông tin về người chết đang được lưu giữ trong tâm họ. Cũng có trường hợp Hoá Sanh đó giao tiếp được với Hoá Sanh của thân chủ chưa vào Thai sanh hoặc Trứng sanh, nên biết được các thông tin về người quá cố, nhưng trường hợp này rất ít, rất hạn hữu.
c – Khả năng ngoại cảm và một số hiện tượng khác :
– Đây là hiện tượng một số người có khả năng nhìn thấy hoặc giao tiếp được với “người âm”. Cái gọi là “người âm” thực chất là một Hoá Sanh, không phải là một linh hồn, một thần thánh nào cả. Khả năng ngoại cảm là khả năng tha tâm thông ,xâm nhập vào kho chứa thông tin của các Hoá Sanh khác, của chúng sanh khác, đọc được các thông tin trong kho chứa đó. Khả năng tha tâm thông, đọc được tâm người khác có thể tu tập và khi sự tu tập đã thành công thì kinh ngiệm này sẽ được lưu giữ trong kho chứa thông tin của người đó. Khi người đó chết lượng thông tin đó được “trao truyền” vào người sau, nhưng những kinh nghiệm này bị nén xuống, bị chìm vào lượng thông tin khổng lồ nên không “nhớ lại” được, không sử dụng được như đa phần con người không nhớ được các tiền kiếp của mình tuy nó vẫn tồn tại trong kho chứa thông tin. Ngay trong kiếp sống này, một người sáu bảy mươi tuổi nhớ lại quảng đời lúc mười tuổi không phải bao giờ cũng làm được, trừ phi có đủ nhân duyên như gặp lại người bạn lúc mười tuổi sau năm sáu mươi năm xa cách. Nếu có một sự đột biến gen ví như một tai nạn đưa đến cái chết lâm sàng thì khi hồi sinh trở lại, lượng thông tin có sự tương tác đưa đến một số thông tin được kích hoạt lên, được “trồi lên” nên người đó có thể sử dụng lại được kinh nghiệm đó, hoặc có rất nhiều người, sau một chấn động nào đó về thân tâm, có sự đột biến gen, họ bổng nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình ví như cô gái sinh ra tại nước Anh, sau khi ngã từ cầu thang, chết đi sống lại đã kể lại tiền kiếp là một tu sỉ trong một đền thờ Ai cập mười mấy thế kỷ trước đã tự sát vì không muốn để cho câu chuyên cô đã yêu và ăn nằm với môt Pha ra ông bị lộ ra. Người có khả năng ngoại cảm theo kiểu này rất là hiếm có, rất ít xẩy ra, còn đa phần người có khả năng ngoại cảm là do một Hoá Sanh thâm nhập và trợ giúp người đó. Khác với đồng bóng gọi hồn, nhà ngoại cảm không bị các Hoá Sanh tác ý điều khiển để nói lên những thấy biết của Hoá Sanh mà những thông tin do Hoá Sanh thấy biết khi giao tiếp với những Hoá Sanh khác, ( những người đã chết ) được lưu vào kho chứa của nhà ngoại cảm và lộ trình tâm của nhà ngoại cảm sẽ sử dụng những thông tin đó nên họ cũng thấy biết như vậy và họ cung cấp những thông tin về người đã chết theo thấy biết của Hoá Sanh. Vì vậy khi có Hoá Sanh xâm nhập trợ giúp thì họ nói đúng, nhưng khi không có Hoá Sanh xâm nhập trợ giúp thì họ sẽ nói sai.
– Đã từng xuất hiện, tồn tại và biến mất rất nhiều nền văn minh trên quả đất này, nên cũng đã từng tồn tại rất nhiều con người có những khả năng đặc biệt. Khi họ chết đi, phát sanh những Hoá Sanh đặc biệt, có những Hoá Sanh tồn tại rất lâu. Trong cùng một không gian này có rất nhiều Hoá Sanh có năng lực khác nhau đang tồn tại và đang có sự tương tác giữa các Hoá Sanh với nhau, cũng như sự tương tác giữa các Hoá Sanh với con người. Sự tương tác đó là sự tương tác giữa các thông tin và nơi người sống thì lượng thông tin đó ở trong các ADN của tế bào trong thân thể. Rất nhiều sự việc và hiện tượng khó hiểu, khó giải thích đều liên quan đến “bí mật” kho chứa thông tin bao gồm Thông Tin Di Truyền và Thông Tin Về Tâm trong ADN của tế bào. Hiện tượng những người tham gia lễ hội tự đâm thủng má, xuyên qua má những thanh gươm, những con dao, mủi tên … do được những Hoá Sanh có những năng lực đặc biệt tác động được vào những gen trong tế bào vùng đó làm cho đương sự không đau đớn. Có những “thần y” chữa được nhiều căn bệnh như câm, điếc, liệt, ngọng… do bẩm sinh bằng cách nắn bóp, bấm huyệt … thực chất không phải tự người đó khám phá ra mà được một Hoá Sanh có năng lực đặc biệt tương tác vào những gen khiếm khuyết bẩm sinh, làm cho nó hoạt động bình thường trở lại. Có những Hoá Sanh kiếp trước tu hành cũng thành tựu những khả năng đặc biệt, nhưng chấp thủ kiên cố vào các kiến giải của mình, khi chết đi phát sinh Hoá Sanh và Hoá Sanh đó tồn tại rất lâu dài. Trong Hoá Sanh loại này ,có những Hoá Sanh có khả năng thâm nhập kho chứa những người tu ( đa phần là người tu trong trạng thái thôi miên, nghĩa là nửa ngủ nửa thức ) và cài đặt thông tin của Hoá Sanh vào kho chứa thông tin người đó. Vì vậy những người được Hoá Sanh cài đặt thông tin về hiểu biết và chấp thủ của Hoá Sanh, lộ trình tâm sẽ sử dụng các thông tin đó làm cho người đó nói lên những hiểu biết và chấp thủ của Hoá Sanh, tuyên bố chứng này, chứng nọ. Do được năng lực của Hoá Sanh trợ giúp họ cũng có thể lôi kéo được hàng loạt tín đồ, có cùng nghiệp như họ….
Chính vì trong thế giới này con người và Hoá Sanh cùng tồn tại, Hoá Sanh lại có đặc điểm như vậy, có những Hoá Sanh chấp thủ rất ghê ghớm nên đôi khi cũng rất độc ác, bạo hành, tàn độc, xảo quyệt, nên muốn được yên ổn, hãy tránh xa những nơi có các hiện tượng trên và luôn luôn cố gắng đừng xúc phạm bất kỳ một ai, cho dù là người dở hơi hay Hoá Sanh ( Phi nhân )LÀ HOÁ SANH ( phần hai )