TRẠCH PHÁP GIÁC CHI

TRẠCH PHÁP GIÁC CHI

Bảy giác chi hay Thất giác chi trong đó có Trạch pháp giác chi là thuật ngữ Phật học Hán Việt mà nghĩa thuần Việt là Bảy chi phần giác ngộ hay Bảy yếu tố giác ngộ. Nghĩa là Bảy yếu tố này ( gồm: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả ) thực hành cho viên mãn thì sẽ đạt được Giác Ngộ và Người nào đã Giác Ngộ thì có bảy yếu tố này.

Trạch pháp giác chi là gì?

Trạch pháp nghĩa tiếng Việt là Trí tuệ, PHÂN BIỆT ĐƯỢC hiểu biết Vô minh ( sai sự thật ) và hiểu biết Minh ( đúng sự thật ) của tất cả các sự vật hiện tượng ( tất cả pháp ). Và để Trạch Pháp tất cả mọi sự vật hiện tượng thì phải TRẠCH PHÁP được cái GỐC, cái CĂN BẢN. Từ Trạch pháp cái GỐC, cái CĂN BẢN rồi theo đó sẽ Trạch pháp được mọi sự vật hiện tượng khác.

Cái GỐC, cái CĂN BẢN ở đây là câu trả lời cho câu hỏi : Thực tại là gì ? hay câu hỏi Tâm biết Vật hay Tâm biết Tâm ? Để Trạch pháp thực tại, trước tiện phải hiểu từ Thực tại ám chỉ cái gì ? Thực tại là những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Đó là những gì được nhìn thấy, được nghe thấy, được ngửi thấy, được nếm thấy, được cảm nhận thấy ( nơi thân ) được tưởng thấy ( tưởng ra ) và những gì được nhận thức. Nói gọn : Thực tại là những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức và gọn nữa Thực tại là những gì ĐƯỢC THẤY, ĐƯỢC BIẾT ( đối tượng của Thấy và Biết ). Trạch pháp cái GỐC, cái CĂN BẢN là Trạch pháp Thực tại, là Trí tuệ PHÂN BIỆT ĐƯỢC hai loại hiểu biết đúng sự thật ( Minh ) và sai sự thật ( Vô minh ) về Thực tại.

Trạch pháp cái Gốc: là Trí tuệ phân biệt được Minh và Vô minh về thực tại

1- Hiểu biết Vô minh thực tại là gì ?

Là hiểu biết của đa phần nhân loại đã mặc định rằng : Thực tại là Thế giới vật chất nghĩa là những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới vật chất, là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Dù quan điểm Duy vật hay Duy tâm thì đều cho rằng, đều mặc định rằng Thực tại là thế giới vật chất. Hiểu biết này cũng được gọi là cái biết NHỊ NGUYÊN TÂM VẬT, cái biết có CHỦ THỂ và ĐỐI TƯỢNG. Chủ thể biết là Tâm thuộc về Con người, Đối tượng được biết là Vật, thuộc về Thế giới vật chất ( TÂM biết VẬT ). Đây là VÔ MINH GỐC mà từ đây mọi Vô minh khác phát sinh.

Từ hiểu biết vô minh gốc, thực tại là thế giới nên hiểu biết Hạnh phúc và Khổ đau đều từ Thế giới bên ngoài mà đến với con người. Tổng quát hơn do vô minh gốc mà đa phần nhân loại mặc định rằng : Khổ, Nguyên nhân Khổ, Khổ chấm dứt, Con đường chấm dứt Khổ ( Khổ Tập Diệt Đạo ) thuộc về Thế giới bên ngoài. Vì vậy, muốn Chấm dứt Khổ là thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống. Và đó là THAY ĐỔI CẢNH CHỨ KHÔNG THAY ĐỔI TÂM. Mọi nỗ lực cố gắng của mỗi người, của tôn giáo, của khoa học đều do hiểu biết đã mặc định này, muốn hết khổ phải thay đổi thế giới từ nghèo đói, lạc hậu, thiếu thốn tiện nghi… thành thế giới giàu có, sang trọng, đầy đủ tiện nghi….

Cũng vì vô minh gốc: thực tại là thế giới vật chất và con người là CHỦ THỂ nên con người có thể làm chủ, sở hữu, điều khiển được vật chất, có thể nắm giữ hoặc vứt bỏ nó. Biểu hiện của vô minh đó là quan hệ giữa các sự vật hiện tượng luôn luôn tồn tại chữ CỦA nên các sự vật hiện tượng không độc lập mà phụ thuộc lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, cái này có trong cái kia, cái kia có trong cái này, một trong tất cả, tất cả trong một….

Cũng từ vô minh gốc Chủ thể Đối tượng mà có TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ và cũng từ đấy mà phát sinh Tham với đối tượng này, Sân với đối tượng kia, Si với đối tượng nọ, là Nguyên nhân phát sinh mọi khổ đau của nhân loại.

Vô minh trong tu học Phật giáo là ĐỔI CẢNH KHÔNG ĐỔI TÂM như sự việc : khi chưa tu thì Yêu mặn Ghét chay còn khi tu lại Yêu chay ghét mặn; chưa tu thì Yêu sướng Ghét khổ, Yêu giàu Ghét nghèo khi tu lại Yêu khổ Ghét sướng, Yêu nghèo Ghét giàu; chưa tu thì Yêu thân thể đẹp đẽ thơm thọ, thanh tịnh Ghét thân thể nhơ nhớp, ô uế bất tịnh khi tu lại Ghét thân thể đẹp đẽ thơm thọ, thanh tịnh Yêu thân thể nhơ nhớp, ô uế, bất tịnh ( phải quán thân bất tịnh, phải làm cho thân bất tịnh )….. Đó là thay đổi cảnh, thay đổi các đối tượng Yêu Ghét còn Tâm Yêu Ghét là Nguyên nhân Khổ thì vẫn y nguyên, không thay đổi.

2- Hiểu biết Minh về thực tại là gì ?

Là hiểu biết mà Đức Phật đã tự mình khám phá và truyền dạy. Đó là thực tại gồm những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức LÀ TÂM chứ không phải thế giới vật chất. Cụ thể là : những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận gọi chung ĐƯỢC THẤY là CẢM GIÁC ( Cảm thọ ), những gì được nhận thức gọi chung ĐƯỢC BIẾT là TƯ TƯỞNG. Thực tại đó là Cảm giác và Tư tưởng, là Tâm chứ không phải Vật, do Sáu Căn tương tác với Sáu Trần mà phát sinh. Vì thực tại là DO DUYÊN KHỞI (Duyên sáu Căn và sáu Trần ) nên nó Vô thường, Vô chủ sở hữu ( nghĩa là nó phát sinh theo quy luật nên không có cái gì là chủ nhân, chủ sở hữu điều khiển, nắm giữ hay xua đuổi được nó ).

Từ Minh gốc này mà phát sinh hiểu biết đúng sự thật về Khổ, Nguyên nhân Khổ, Khổ chấm dứt và Con đường Khổ chấm dứt ( Khổ Tập Diệt Đạo ) thuộc về TÂM chứ không thuộc về thế giới bên ngoài. Và có HAI LOẠI THỰC TẠI DO DUYÊN VÔ MINH VÀ DUYÊN MINH MÀ KHỞI LÊN.

* Loại thực tại thứ nhất ( thế gian ) do Duyên Vô minh khởi lên theo lộ trình tâm Bát tà đạo, có tham sân si, có ràng buộc, có luân hồi sinh tử, có khổ vui nhưng cái vui đó là bất tịnh, cái vui đó cũng là nguyên nhân phát sinh khổ. Đó là: XÚC – [Thọ – Tưởng ]- Tà niệm – Tà tư duy – Tà tri kiến – Tham Sân Si – Tà định – Dục – Tà tinh tấn – Phi như lý tác ý – Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng – Khổ Vui.

* Loại thực tại thứ 2 ( xuất thế gian ) do Duyên Minh khởi lên theo lộ trình tâm Bát Chánh đạo có Khổ diệt ( Niết bàn ) có Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát. Đó là : XÚC – [Thọ – Tưởng ] – Chánh niệm – Chánh tinh tấn – Chánh định – (Tỉnh giác ) – Chánh tư duy – Chánh tri kiến – Như lý tác ý – Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Vì vậy để chấm dứt khổ, chấm dứt luân hồi sinh tử phải THAY ĐỔI TÂM KHÔNG THAY ĐỔI CẢNH. Nghĩa là thay đổi lộ trình tâm Bát tà đạo ( thực tại thế gian ) thành lộ trình tâm Bát Chánh đạo ( thực tại xuất thế gian ) mà cụ thể là THAY ĐỔI THẤY và BIẾT từ Thấy và Biết không đúng sự thật ( Vô minh ) thành Thấy và Biết đúng sự thật ( Minh ). Nghĩa là tu học nơi tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Thấy và Biết ( Tưởng và Thức ) chứ không phải là nơi địa linh nhân kiệt, nơi có phong thủy tốt lành, nơi khó khăn khốc liệt hay các hang động kỳ bí trên dãy Hy mã lạp sơn hay núi thiêng Linh thứu mà Đức Phật đã từng ở …. Đối với sự tu học Phật giáo phải Trạch pháp : ĐỔI CẢNH KHÔNG ĐỔI TÂM LÀ VÔ MINH, ĐỔI TÂM KHÔNG ĐỔI CẢNH LÀ MINH.

Trạch pháp là Trí tuệ phân biệt được hiểu biết đúng sự thật ( Minh ) và hiểu biết sai sự thật ( Vô minh ), là yếu tố thứ hai trong bảy yếu tố đưa đến Giác Ngộ. Trạch pháp được tu tập viên mãn sẽ đưa đến Giác Ngộ bằng lộ trình Văn – Tư – Tu theo mô hình xoắn trôn ốc. Đương nhiên chỉ có người trí mới kiên trì nhất hướng theo lộ trình này không phải ai cũng làm được. Người trí kiên trì nhất hướng đi theo lộ trình này thì đến lúc sẽ Trạch pháp được mọi sự vật hiện tượng xẩy ra là do Duyên với Vô minh hay do Duyên với Minh mà khởi lên. Trí tuệ Trạch pháp sẽ xóa bỏ Vô minh, sẽ đoạn tận Vô minh và đó là thời điểm xẩy ra đột chuyển Giác Ngộ.

Tác giả: Thiền sư Nguyên Tuệ

Để lại một bình luận