Sự thật về Khổ là do Duyên Khởi

Sự thật về Khổ là do Duyên Khởi

Có phải Khổ do mình làm mình chịu, hay do người khác làm mình chịu?

Câu hỏi:
Phan Thủy Quyên: Thưa Thiền sư Nguyên Tuệ, con có câu hỏi liên quan đến thấy biết như thật với khổ. Con hiểu khổ là do nhân khởi phát sinh trên lộ trình tâm bát tà đạo nên khổ vô thường, vô ngã, không phải do mình gây ra mà cũng không phải do người khác tạo nên.

Điều con cảm thấy chưa hiểu rốt ráo ở đây là Đức Phật nói đại ý như sau: tư tưởng cho rằng khổ do mình làm và mình lãnh thọ là thường kiến; tư tưởng cho rằng khổ do người khác gây ra cho mình là đoạn kiến.

Theo hiểu biết của con hiện tại thì tư tưởng cho rằng khổ do mình làm, mình thọ lãnh là thường kiến, cho rằng ta là chủ thể của các lời nói hành động trong quá khứ và hiện tại, do đó nghiệp nhân là do ta tạo ra, từ đó nghiệp quả ta phải thọ lãnh. Đây là tư tưởng chấp ngã, tư tưởng một nhân sinh quả do đó khổ luôn luôn có, thường xuyên có, thường hằng trong ta đây là chấp có là thường kiến.

Tư tưởng cho rằng khổ do người khác gây ra cho mình là đoạn kiến, cho rằng ta không hề tạo tác nghiệp nhân nào, chấp không đoạn kiến mà nghiệp quả mà ta đang phải chịu đựng là do người khác đem lại cho ta. Hiện con mới chỉ hiểu được như vậy và vẫn cảm thấy chưa được rốt ráo, con xin Thiền sư giảng giải cho con chi tiết cụ thể ở chỗ này để con hiểu được toàn diện, thấu đáo hơn.

Thiền sư Nguyên Tuệ trả lời:
Tôi có bài viết trên Facebook là Thấy Biết như thật Khổ. Khổ là phải thấy nó, là cái biết trực tiếp giác quan ghi nhận nó và biết nó, như vậy tức là có hai cái tâm, thấy và biết khổ.

Cái thấy khổ thì phàm hay thánh đều là thấy khổ cả. Đó là cái biết trực tiếp giác quan. Nhưng mà biết khổ thì có hai loại hiểu biết về khổ.

  • Một là hiểu biết không đúng sự thật, gọi là vô minh tà kiến về cái khổ.
  • Hai là hiểu biết đúng như thật về khổ, gọi là minh là chánh kiến.

Phân biệt Minh và Vô minh về Khổ

Thế thì quý vị phải hiểu rằng cái hiểu biết đúng sự thật về khổ, là minh, là chánh kiến mới gọi là tuệ tri khổ đế hay là giác ngộ khổ đế. Cái chữ khổ đế ở đây ám chỉ là cái sự thật về khổ, là cái hiểu biết đúng sự thật về khổ. Còn đa phần hiện nay thì cho rằng khổ đế là cứ thấy khổ. Thấy người này, người kia ốm đau rồi chết chóc rồi không có công ăn việc làm, rồi là nằm viện, vv khổ nó khắp nơi như vậy.

Càng thấy được nhiều khổ thì là họ cho rằng đã giác ngộ khổ đế. Thế thì quý vị phải khám phá được cái sự thật về khổ, nhưng khám phá được sự thật về khổ là khổ đế đó thì cũng phải hiểu biết cái hiểu biết không đúng sự thật về khổ, vô minh về khổ của nhân loại, phải phân biệt được minh và vô minh về khổ.

Ở đây, quý vị thấy trong đối đáp giữa một vị Bà La Môn và Đức Phật. Vị Bà La Môn hỏi Đức Phật: “Sa Môn Gotama, khổ do mình làm rồi mình lãnh thọ có phải không?” Đức Phật trả lời: “Không phải, đó là thường kiến, là một cái tà kiến, là cái hiểu biết không đúng sự thật về khổ.”

Rồi Bà La Môn lại hỏi tiếp: “Vậy thì khổ do người khác làm và mình phải lãnh chịu có đúng vậy không?” Đức Phật cũng trả lời: “Đó là đoạn kiến, nó không đúng sự thật, nó đoạn kiến là một cái loại tà kiến.” Thế thì Bà La Môn này chỉ tư duy, chỉ hiểu khổ theo hai cách đó.

Sự Hoang Mang của Bà La Môn

Thế thì ông ta ngạc nhiên quá. Ông chắc mẩm rằng lời mình hỏi Đức Phật sẽ công nhận cái này hay là công nhận cái kia. Công nhận là khổ do mình làm rồi mình chịu hay là khổ do người khác làm thì mình chịu. Bà La Môn tin chắc là Đức Phật sẽ xác nhận một trong hai quan điểm đó. Nhưng ở đây, Đức Phật phủ nhận cả hai quan điểm đó.

Lúc đó, Bà La Môn hoang mang. Ông ta hỏi tiếp: “Vậy thì không có khổ sao?” Sự hoang mang này thể hiện rằng cái hiểu biết của ông ta chỉ nằm ở trong hai quan điểm thôi. Một là khổ do mình làm rồi mình chịu hay là khổ do người khác làm rồi mình chịu. Quan điểm của ông ta chỉ nằm trong hai quan điểm đó. Đây cũng chính là cách nhận thức của nhân loại. Còn Đức Phật phủ nhận cả hai cái đó thì ông càng hoang mang.

Ông ta hỏi vậy thì là khổ không có à?

Đức Phật trả lời: “Khổ là có thật, ta đã thấy khổ, ta đã biết khổ.”

Lúc đó, Bà La Môn mới hỏi: “Vậy khổ ở đâu?”

Đức Phật trả lời: “Khổ do duyên xúc.”

Ở đây, quý vị thấy rằng cái đoạn kinh này ở trong tương ưng bộ kinh nó rất là đầy đủ. Nhưng mà hiểu nó cũng rất là khó khăn chứ không phải là dễ dàng.

Thường Kiến và Đoạn Kiến là 2 Tà Kiến

Trước tiên, quý vị phải hiểu cái thường kiến và đoạn kiến là hai tà kiến. Quý vị phải hiểu rằng các quan điểm, hiểu biết về thực tại này, thì đều cho cái thực tại này là thế giới vật chất. Và cho rằng thực tại này là thế giới vật chất thì nó có hai quan điểm về thế giới vật chất.

Quan điểm Duy vật cho rằng thực tại là thế giới vật chất

Một là quan điểm duy vật, cho rằng vật chất là sẵn có, luôn luôn có, không sinh ra, không mất đi. Nó chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Quan điểm thứ nhất đó là dựa trên cái tiên đề công nhận rằng vật chất là có trước, vật chất là tồn tại vĩnh viễn. Vật chất, các vật thể đó là không sinh ra cũng không biến mất đi, nghĩa là không sinh không diệt. Nó chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ vật này sang vật khác, thì ý thức là cái sản phẩm của cái thế giới vật chất đó.

Quan điểm này là quan điểm duy vật về thế giới mà cái quan điểm này công nhận và các sự vật và hiện tượng là không sinh ra cũng không mất đi, mà nó chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Có nghĩa là nó biến mất ở chỗ này thì nó lại trình hiện ra chỗ khác. Nó không sinh, không diệt. Cho nên quan điểm này gọi là thường kiến.

Cho nên một số, kể cả trong Phật Giáo, một số người là ý cử vào cái quan điểm này mà vật chất là không sinh không diệt đó. Cho nên nói không là tất cả là chỉ biến đổi thôi, không ở chỗ này thì chỗ kia. Cho nên tất cả đều không sinh diệt, đừng có sợ hãi. Còn lấy quan điểm đó để nói rằng cha ông quý vị đâu có chết nó đang nằm trong các thực tế bào của quý vị đây này. Như vậy đâu có có sinh ra cũng đâu có diệt mất, vv.

Quan điểm đó gọi là thường kiến hay còn gọi là chấp có. Chấp có nghĩa rằng là cái thế giới vật chất đó nó tồn tại một cách khách quan. Nó là luôn luôn có, nó là thường xuyên có, nó vĩnh viễn có, nó không phụ thuộc vào cái con người nhận thức đó.

Quan Điểm Duy Tâm về thế giới vật chất

Cái quan điểm thứ hai là cho rằng cái thế giới vật chất này là do Thượng đế một năng lực tinh thần tuyệt đối Bất Khả tư nghì hóa hiện ra. Cái thế giới vật chất này Đức Chúa trời hay là thượng đế muốn cho nó tồn tại, muốn cho nó hiện ra như thế này thì nó sẽ hiện ra. Còn Chúa muốn nó biến mất lúc nào thì là Chúa sẽ làm cho nó biến mất.

Rồi là cái sự vận động của cái thế giới vật chất này là do Chúa điều khiển, Chúa muốn nước chảy ngược thì nó chạy ngược, muốn nó chảy xuôi thì nó chảy xuôi, vv. cái quan điểm đó là quan điểm duy tâm về thế giới vật chất mà và quan điểm đó gọi là đoạn kiến. Đoạn kiến có nghĩa là lúc này nó có như thế này. Chúa muốn nó biến mất khi nó tự dưng nó biến mất này. Đoạn kiến hiểu là như vậy.

Thường kiến và Đoạn kiến về Khổ

Quý vị thấy hai quan điểm đó, thường kiến và đoạn kiến là những cái tà kiến. Đức Phật là ly hai cực đoan đó thuyết pháp ở Trung Đạo. Bây giờ quý vị cũng quan sát đối đáp này để quý vị hiểu rằng là thường kiến và đoạn kiến về khổ là như thế nào. Là những hiểu biết sai lạc về khổ, vô minh tà kiến về khổ, rồi quý vị sẽ thấy rằng là Trung đạo Đức Phật thuyết sự thật về khổ, nó lý hai cực đoan, thường kiến và đoạn kiến đó.

Câu đầu đầu tiên Bà La Môn hỏi rằng là: Khổ do mình làm rồi mình chịu có đúng không?

Đức Phật nói là sai cái đó không đúng đó là thường kiến là tà kiến.

Điều này nghĩa là thế nào? khi mà quan niệm rằng khổ là do mình làm thì minh chịu, tức cho rằng có một cái ta không sinh không diệt. Nó tồn tại từ quá khứ hiện tại đến vị lai, cái ta đó là chủ chủ nhân tạo ra cái khổ đó.

Bây giờ chính cái ta đó là lãnh Thọ cái khổ đó, thì cái quan niệm đầu tiên, cái ta không sinh không diệt đó là một cái thường kiến rồi, quý vị sẽ thấy rằng quan điểm khổ mình làm mình chịu, thí dụ như ta là chủ nhân của nghiệp, khổ này trong kiếp sống này là do nghiệp ta đã tạo tác trong quá khứ. Bây giờ là ta phải là thọ lãnh cái quả của nghiệp đó. Đó chính là thường kiến.

Thường kiến về Khổ: quan niệm khổ do mình làm mình chịu

Giải thích khổ theo thường kiến đó, Ta là chủ nhân của nghiệp, ta là thừa tự của nghiệp. Đương nhiên, cái ta đó cũng thường trú rồi. Nhưng rõ ràng, khổ được tạo ra trong quá khứ và bây giờ ta lãnh thọ.

Khổ này là do ta thiếu phước báu kiếp xưa ta không làm thiện, không tạo phước báu, nên bây giờ ta thiếu phước này, cho nên bây giờ ta khổ, đó là thường kiến. Trước kia ta tạo nghiệp ác rồi, bây giờ ta phải thọ lãnh quả khổ này. Trả cái nghiệp này, bây giờ tu phải trả cho hết nghiệp. Đó là quan điểm thường kiến.

Quý vị quan sát cái hiểu biết về khổ của con người bây giờ như thế nào? quý vị thấy rằng nó chính là tà kiến về khổ, gọi là thường kiến, rất nhiều, nhiều lắm cứ quan sát cho kỹ, ngay cả trong Phật Giáo đều là những quan điểm về khổ như vậy, đều là thường kiến. Thí dụ như cho rằng tất cả các pháp là khổ, khổ sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có ở trong các pháp. Đó là thường kiến.

Thường kiến chấp có là như vậy và nó cũng hiểu theo lý nhân quả, nhưng cái lý nhân quả hiểu một cách vô minh. Một nhân sinh quả, thì quả trong nhân, quả trong nhân, nó chỉ biến đổi từ cái này sang cái khác thôi tương tức tương nhập nhân trong quả, quả trong nhân. Đó là quan điểm thường kiến là một tà kiến.

Đoạn Kiến về Khổ: Quan niệm khổ do người khác gây ra và mình phải chịu

Quan điểm thứ hai là khổ do người khác làm, rồi mình phải thọ lãnh cái khổ đó. Đức Phật xác nhận đây cũng là một tà kiến, là hiểu biết sai về khổ và tà kiến này là đoạn kiến này là như thế nào?

Ví dụ như quan điểm của tôn giáo trong Cựu Ước. Cho rằng những nỗi khổ đau của con người bây giờ là do ông Adam và bà Eva ăn quả cấm của cây tri thức. Cho nên con người phải chịu khổ là do tội của tổ tông. Chúa trừng phạt con người là do ông Adam và bà Eva do tổ tông gây nên.

Quý vị thấy rằng quan điểm này có phải là ông Adam và bà Eva phạm tội. Thế bây giờ Chúa trừng phạt loài người. Như vậy một người làm ra khổ là ông Adam và bà Eva, còn bây giờ loài người phải chịu cái khổ đó. Đó chính là quan điểm duy tâm, gọi là đoạn kiến. Đoạn kiến là như vậy.

Ví dụ như là quan niệm rằng cái phước, cái tội của gia đình mình là do cổ tiến ông bà ban cho. Thí dụ như là ông bà tổ tiên trừng phạt nhà mình, cho nên nhà mình phải khuynh gia bại sản hay nhờ bà tổ cô nào đó phù hộ cho nên bây giờ gia đình mình ăn nên làm ra.

Đó cũng là một hiểu theo cách thức đoạn kiến, theo cách thức đoạn kiến có nghĩa là có một thế giới tâm linh mà con người sống trong thế giới này, thì là khổ vui của họ, không phải là do họ làm ra, rồi họ lạnh chịu như là thường kiến, mà quan điểm rằng phải do cái thế giới tâm linh là thưởng phạt.

Thí dụ như theo kinh cựu ước cái sướng khổ của loài người đây là do Chúa ban cho hay là trong tâm linh của những dân cư phương đông thế giới tâm linh mà trong đó là tổ tiên của mình đang sống mà hay là các vị thánh Phật có thể là phù hộ cho mình, có thể là trừng phạt mình. Có nghĩa rằng là sướng khổ đó đều là do thế giới tâm linh thưởng phạt, đó chính là một người làm ra khổ còn người khác chịu đựng khổ thì đó chính là quan điểm đoạn kiến.

Thường kiến và Đoạn kiến cùng tồn tại trong mỗi người (trừ bậc thánh)

Quý vị sẽ thấy rằng cứ suy nghĩ cho kỹ, quan sát cho kỹ tuy rằng là có hai cái quan điểm thường kiếnđoạn kiến, nhưng mà nó không rạch ròi. Không phải là một người chỉ là theo thường kiến hay là một là chỉ riêng đoạn kiến mà trong tâm thức của mỗi người, trong cái biết ý thức tà kiến của mỗi người luôn luôn là tồn tại cả hai loại thường kiếnđoạn kiến đó chứ không phải là chỉ có một.

Cho nên không phải duy vật và duy tâm, Thường kiếnđoạn kiến nó chia ra là hai cái lĩnh vực rõ ràng, nó tồn tại là ở trong hai loại người rõ ràng. Không phải như vậy, trong mỗi một con người thì tư tưởng là thường kiến và đoạn kiến nó đều song hành. Đó gọi là hai cực đoan.

Đức Phật ly hai cực đoan thuyết Khổ do Duyên Khởi

Còn bây giờ Đức Phật thuyết pháp ở Trung Đạo, Ngài ly hai cực đoan đó như thế nào? Ngài trả lời là ta thấy khổ, ta biết khổ. Bà La Môn nói rằng là vậy khổ ở đâu? Đức Phật nói là khổ do duyên xúc. Khổ do duyên xúc, không có xúc thì khổ không khởi lên.

Vậy thì quý vị sẽ thấy là quan sát nếu như là trong Thập Nhị Nhân Duyên nói một cách tóm tắt là do có xúc, do có lục nhập tức là 6 căn và 6 trần sẽ có xúc. Do xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà có Hữu, Do có Hữu mà có Sinh, do có Sinh mà có già chết sầu bi khổ ưu não không thể kể xiết.

Vậy thì sầu bi khổ ưu não không thể kể xiết nó phát sinh theo một lộ trình nối tiếp nhau khởi đầu là 6 căn tiếp xúc với 6 trần thì lúc đó khổ mới khởi lên, không có tiếp xúc thì khổ không thể khởi lên. Quý vị thấy rằng là khi một người là ngủ say không mộng mị lúc đó là 6 căn không tiếp xúc với 6 trần lúc đó là có ai có khổ không, rõ ràng là khổ khởi lên là do duyên xúc.

Cụ thể trên lộ trình tâm Bát Tà đạo, quý vị thấy là mô tả tỉ mỉ là căn trần tiếp xúc phát sinh động thời thọ – tưởng, tiếp đến là tà Niệm, tà Tư duy, tà Tri kiến khởi lên, rồi là tham sân si, tà Định, Dục, Tà tinh tấn, phi như lý tác ý, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, cuối cùng là khổ vui.

[hình ảnh]

Quý vị thấy là khổ là do duyên xúc do căn trần tiếp xúc mà phát sinh và căn trần không tiếp xúc thì khổ không phát sinh, khổ là do duyên khởi và quý vị phải thấy 1 đặc điểm như thế này, như vậy là khổ là do duyên xúc, do căn trần tiếp xúc, lộ trình tâm Bát tà đạo nó khởi lên thì khổ nó khởi lên, có nghĩa là khổ nó phát sinh ngay bây giờ và tại đây, Khổ không có trong quá khứ.

Quý vị thấy là Căn Trần tiếp xúc nhau mà phát sinh, hai cái đó là tương tác nhau mới phát sinh chứ không phải là khổ nó sẵn có ở trong căn hay trong trần. Quý vị là thấy Lý Duyên Khởi cái này có thể là hơi khó, nhưng bây giờ tôi nói cái hình ảnh này để quý vị thấy này.

Viên đá lửa và cái bánh xe là hai nhân, hai nhân tiếp xúc với nhau, do tiếp xúc đó, do duyên tiếp xúc đó nó phát sinh ra ánh lửa, thì ánh lửa này là trước khi nó chưa sinh thì nó không sẵn có đâu cả, nó không sẵn có nơi hòn đá lửa, cũng không có sẵn nơi cái bánh xe của bật lửa, như vậy Pháp duyên khởi là khi nào mà tiếp xúc, tương tác thì nó mới phát sinh, và khi mà nó chưa phát sinh, nó phát sinh do tương tác, không có tương tác không có tiếp xúc là không có phát sinh, cho nên nó không ở sẵn trong các nhân.

Vì vậy quý vị thấy rằng là khổ do Duyên xúc cho nên là khi nào xúc có mặt, căn trần lúc mà tiếp xúc thì khổ lúc đó mới khơi lên. Tức là khổ có mặt ngay bây giờ và tại đây, Khổ không sẵn có không luôn luôn có không thường xuyên có ở một cái chỗ nào đó nào cả. Cho nên là qúy vị thấy rằng như vậy là chấm dứt cái Thường Kiến, khổ sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có ở một chỗ nào.

Thí dụ như là quá khứ trước kia là có một người tạo ra khổ đó, thì khổ nó tồn tại nơi đó, vv, cho đến nay là người đó phải lãnh chịu, quý vị thấy rằng do duyên Khởi cho nên khổ là do duyên xúc, cho nên khổ chỉ có ngay bây giờ và tại đây, quá khứ không có khổ và khi mà khổ diệt rồi thì nó cũng không có trong tương lai.

Cho nên quý vị thấy tính chất của duyên khởi, khổ có mặt bây giờ và tại đây, nó không phải là do một người nào đó làm từ trong quá khứ, giữ nó trong quá khứ cho đến bây giờ là đưa đến cho quý vị bắt quý vị phải nhận cái khổ đó, cũng không phải là khổ nó là do một cái thế giới tâm linh nào đưa đến cho quý vị.

Như vậy quý vị sẽ thấy rằng khổ do duyên xúc, khổ có mặt ngay bây giờ và tại đây thì là nó chấm dứt cả thường kiếnđoàn kiến và khổ là do duyên khởi cho nên khổ nó vô thường nó sinh lên và nó cũng diệt đi, khổ là vô chủ vô sở hữu không có một cái ta, một cái tôi một cái bản ngã nào là chủ nhân chủ sở hữu của khổ, cũng không có Thượng đế nào là chủ nhân, chủ sở hữu điều khiển cái khổ đó, mang khổ đó đến cho con người.

Như vậy là quý vị thấy rằng Tuệ Tri được Khổ Đế, hiểu biết đúng sự thật về khổ, khổ do duyên xúc, khổ vô thường, vô chủ vô sở hữu thì lúc đó sẽ chấm dứt được cái thường kiến, chấm dứt được cái đoạn kiến. Điều này để nói rằng đây là một pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tĩnh, mỹ diệu, vượt quá mọi tư duy lý luận suông chỉ có người trí mới có khả năng lĩnh hội kiến thức này.

Thiền Sư Nguyên Tuệ.

  • Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=z9fb12Z7f98

 

Để lại một bình luận