Thiền nói là gì? Là thiền bằng lời nói, là thiền nơi đầu môi chóp lưỡi. Tác giả của Tây Du Ký đã có quan điểm về loại thiền này bằng ẩn dụ trong chương Tôn Ngộ Không đánh nhau với Hồng Hài Nhi. Tôn Ngộ Không võ nghệ cao cường áp đảo được Hồng Hài Nhi, nhưng Hồng Hài Nhi có một loại vũ khí lợi hại là súng bắn ra Lửa Khói Tam Muội làm cho Tôn Ngộ Không mê man bất tỉnh, suýt bỏ mạng. Tôn Ngộ Không phải nhờ Bồ tát cứu viện. Bồ tát sai Mộc xoa Huệ ngạn lên Thiên đình mượn bộ đao thiên cung của Thác tháp Lý thiên vương, sai đệ tử rùa múc đầy một hồ lô nước biển Nam hải. Lại sai một con chim màu trắng bay ngang tầm mắt dẩn đường. Đến nơi Bồ tát sai sơn thần, thổ địa đuổi các loài thú ra ngoài 800 dặm, sau đó sai rùa đổ nước biển Nam Hải trong hồ lô ra khoảng trống kia. Tiếp đến Bồ tát dùng đao Thiên cung làm thành đài sen và an toạ trên đó. Tiếp đến bảo Tôn Ngộ Không nhử Hồng Hài Nhi đến. Hồng Hài Nhi dùng giáo đâm vào Bồ tát, khiến Bồ tát phải rời đài sen và đánh nhau với Hồng Hài Nhi. Bồ tát ném ra năm vòng kim cô còn lại (tất cả có tám vòng kim cô, một vòng trên đầu Tôn Ngộ Không, hai vòng đã được sử dụng nhưng người viết không nhớ rõ). Năm vòng kim cô mà Bồ tát ném ra trói chặt hai tay, hai chân và cổ của Hồng Hài Nhi buộc y phải quy hàng và chấp nhận cạo đầu quy y với Bồ tát. Vừa cạo đầu quy y xong ,Hồng Hài Nhi lại cầm giáo đâm Bồ tát và nhảy lên chiếm đài sen, nhưng đài sen hoá hiện nguyên hình các đao Thiên cung đâm xoáy vào đùi Hồng Hài Nhi, làm cho y vô cùng đau đớn. Hồng Hài Nhi cố gắng rút các mũi đao ra khỏi đùi, nhưng càng rút thì đao càng xoắn lại và kết quả là y phải hàng phục Bồ tát. Từ đây Hồng Hài Nhi đi theo Bồ tát về biển Nam Hải ,cứ mỗi bước đi lạy xuống một lạy và đúng năm mươi hai bước chân thì về đến Nam Hải.
Ẩn dụ này được hiểu như sau: Tôn Ngộ Không là nhân cách hoá của Ý Thức con người, là cái biết do tư duy ( suy nghĩ )tạo thành, nói nôm na là cái biết của trí óc. Tam Muội theo nghĩa của Tiếng Hán là Định. Hình ảnh Tôn Ngộ Không bị khói lửa Tam Muội làm cho ngất đi, suýt mất mạng khẳng định rằng : không thể nào có thể đắc được các bậc Thiền bằng trí óc,bằng hiểu biết ,bằng lời nói, bằng thuyết giảng về Thiền. Cho dù một người suốt đời nghiên cứu về Thiền định, thuộc làu làu những kinh điển, những chú giải nói về Thiền, thuộc lòng quyển Thiền Luận của Suzuki hay những thiền luận hay hơn thế nữa, có thể thuyết giảng tự tại vô ngại về Thiền,và nếu chỉ có như vậy thì chắc chắn người đó không thể chứng ngộ và an trú các bậc Thiền. Vậy muốn đắc các bậc Thiền phải làm thế nào? Muốn đắc các bậc Thiền phải thực hành tuần tự. Trước tiên phải giữ giới theo tinh thần: không làm các điều ác, thực hiện các hạnh lành ẩn dụ là đuổi các con thú ra ngoài 800 dặm trước khi tưới nước biển Nam Hải ( nước từ bi ). Tiếp đến là tư thế ngồi: hai chân gài chặt vào nhau theo tư thế kiết già, ẩn dụ là hai vòng kim cô trói chặt hai chân, hai tay gài vào nhau theo kiểu Định Ấn, nghĩa là ngón trỏ và ngón giữa của hai bàn tay cài vào nhau, ngón út và ngón áp út đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm nhau mà ẩn dụ là hai tay bị trói chặt, hai hàm răng chạm khít, đầu lưỡi chạm vào răng hoặc nóc họng mà ẩn dụ là cổ bị trói chặt. Người toạ thiền cần phải lưu ý ba điểm chạm như trên. Đầu thẳng, cổ thẳng, lưng thẳng mà ẩn dụ là con chim màu trắng dẩn đường bay ngang dưới tầm mắt. Tiếp đến phải hàng phục được cái đau, đặc biệt là cái đau nơi hai chân. Phải hàng phục để cái đau nơi chân không còn chi phối được tâm ẩn dụ là Hồng Hài Nhi hàng phục Bồ tát. Từ đây trở đi mới có thể sử dụng Định như một phương tiện tu tập Trí Tuệ, để đắc các quả vị, mà ẩn dụ là Hồng Hài Nhi đi về Nam Hải bằng cách vừa đi vừa lạy. Năm mươi hai bước mới về đến Nam Hải ẩn dụ cho 52 quả chứng từ: Thập tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác bồ tát và Phật quả ( theo quan điểm tu chứng của Phật Giáo Bắc tông ).
Con đường của Giác ngộ và Giải thoát là con đường Giới Định Tuệ, là sự thực hành Tăng thượng Giới học, Tăng thượng Định học, Tăng thượng Tuệ học chứ không phải là con đường tư duy lý luận suông, không phải là Thiền nói, không phải tu nơi đầu môi chóp lưỡi. Đức Phật đã Giải thoát ,không những Ngài tuyên thuyết về sự giải thoát mà Ngài còn thuyết giảng, phân tích, hiển thị, chỉ dẩn rành mạch về Con đường đưa đến Giải thoát. Ngài là bậc Huấn Luyện Sư tối thượng, huấn luyện kẻ phàm phu thành bậc Thánh giải thoát. Sự huấn luyện của Ngài xẩy ra tuần tự: Vị Tỷ kheo giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh,thấy nguy hiểm trong mỗi lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới. Tiếp đến hộ trì sáu căn, nghĩa là khi mắt tiếp xúc với sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ kheo chế ngự nguyên nhân ấy …Tiếp đến vị Tỷ kheo tiết độ trong ăn uống, tức là chơn chánh giác sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không phải để thưởng thức, không phải để làm đẹp thân thể, mà chỉ để thân này được bảo trì, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh… Vị Tỷ kheo thực hành Chánh Niệm Tỉnh Giác trong mọi tư thế, đi đứng ngồi nằm, mọi công việc, mọi lúc ,mọi nơi. Tiếp đến ngồi kiết già lưng thẳng an trú Chánh Niệm trước mặt, vị Tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền …,Nhị thiền…,Tam thiền…,Tứ thiền. Với tâm định tĩnh, nhu nhuyển, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản không cấu nhiểm như vậy, vị ấy hướng tâm quán sát và biết như thật: Đây là Khổ, đây là Nguyên nhân Khổ, đây là Sự chấm dứt Khổ, đây là Con đường chấm dứt Khổ. Do thấy như vậy, biết như vậy các lậu hoặc được đoạn tận. Vị ấy biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không còn trở lui đời này nữa. Đây là con đường tuần tự, được thiết kế rất ” chuyên nghiệp” do cái biết rốt ráo của bậc Chánh Đẳng Giác. Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Ngài chỉ thuyết giảng có hai điều : Khổ và Sự chấm dứt khổ mà cụ thể là Tứ Thánh Đế và điều Ngài thuyết giảng nhiều nhất là Con đường chấm dứt Khổ, đó là Bát Chánh Đạo bao gồm Giới – Định – Tuệ. Giới đã được Ngài chế định cho Phật tử tại gia và cho người xuất gia. Định được Ngài giảng bằng ba bản kinh chính là: Tứ Niệm Xứ, Niệm hơi thở vô, hơi thở ra và Thân hành niệm. Tuệ được Ngài giảng giải xuyên suốt kinh điển theo tiến trình Văn – Tư – Tu.
Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, nghĩa là Ngài tự mình giác ngộ Tứ Thánh Đế không thầy chỉ dạy, sự thuyết giảng của Ngài là toàn thiện ở đoạn đầu, toàn thiện ở đoạn giữa, toàn thiện ở đoạn cuối, không bao giờ chống trái nhau, không bao giờ mâu thuẩn nhau. Lời dạy nhất quán này chỉ còn tồn tại trong năm bộ kinh Nikaya của Phật giáo nguyên thuỷ. Tuy rằng năm bộ kinh Nikaya được xem là gần với Nguyên thuỷ nhất, chứ không phải là Nguyên thuỷ (lời dạy của Phật) vì nó chứa đựng rất nhiều yếu tố tôn giáo được thêm vào sau này, nhưng lời dạy cao quý này vẫn còn lấp lánh xuyên suốt toàn bộ bộ kinh. Lời dạy của Đức Phật về Tứ Thánh Đế không phải là kinh nghiệm cá nhân do tư duy tác thành mà nó là Chân Lý, là Sự Thật phổ quát, nơi Đức Phật cũng như vậy, nơi người khác cũng như vậy. Ngài đã giảng dạy Chân Lý, giảng dạy cái Sự Thật phổ quát mà Ngài đã chứng ngộ. Đó là:.
– Đối với kẽ Phàm phu, do nhân như vậy, duyên như vậy nên hễ sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi lên và trên Thực tại đó sẽ có Vô Minh, sẽ có Tham Sân Si, sẽ có sầu bi khổ ưu não.
-Đối với bậc Thánh do nhân như vậy, duyên như vậy nên khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên và nơi Thực tại đó sẽ có Tâm Giải thoát, Tuệ Giải thoát. Để chấm dứt Khổ, phải tu tập để khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo mới nhiếp phục và đoạn tận lộ trình tâm Bát Tà Đạo, mới đoạn tận Tham Sân Si, đoạn tận Khổ.
Có rất nhiều người, có thể là nhà tu hành, nhà văn, thi sĩ, nhà triết học … họ cũng nói được về Giải thoát, thậm chí với những lời văn hoa mỹ, câu văn hoa mỹ, những hình dung từ hoa mỹ làm say đắm người đời, nhưng họ đã Giải thoát hay chưa thì hãy thận trọng, hãy khoan vội tin mà hãy xem xét thận trọng trong một khoảng thời gian đủ dài, họ có còn Tham Sân Si hay không? Nếu không có điều kiện để xem xét như vậy thì hãy xem xét những điều họ thuyết giảng. Một người thực sự giải thoát thì không những họ nói được về Giải thoát mà họ còn giảng nói, phân tích, chỉ đẫn rành mạch về cách thức, phương pháp hay con đường thực hành để đạt được sự giải thoát ấy, bởi họ đã thực chứng giải thoát bằng cách thức đó và cách thức ấy hoàn toàn phù hợp với lời dạy của Phật. Một người nói hay, nói giỏi, nói hấp dẫn bao nhiêu đi nữa về Giải thoát nhưng không nói rõ được về sự thực hành, hoặc lời dạy thực hành ấy không phù hợp với lời dạy của Phật, hoặc không đề cập đến phương pháp thực hành, thì chỉ là lý luận suông do tư duy tác thành,đó chỉ là Thiền nói. Đức Phật chỉ có một, lời dạy của Đức Phật cũng chỉ có một, nhưng hiện nay kinh điển thì nhiều vô số kể, một lượng thông tin khổng lồ, thậm chí là trái ngược nhau, cãi lộn nhau. Đức Phật giác ngộ Chân Lý, giác ngộ cái Sự thật phổ quát đó là: Tuê tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ cũng có nghĩa là giác ngộ Tứ Thánh Đế chứ không phải giác ngộ về Bản ngã, giác ngộ một Bản Tâm, một Tánh biết, một Phật tánh, một Tánh không, không sinh không diệt nào đó, hay giác ngộ Thế giới là thế này hay thế kia, tương đối hay tuyệt đối. Những bậc Thánh Alahan đã giác ngộ Tứ Thánh Đế do Phật chỉ dạy cũng như vậy, những vị đó sẽ không hề thêm bớt, không hề chú giải về lời dạy của Ngài, do chư vị quán sát, đối chiếu lời dạy với sự thật của Thực tại, chư vị cảm nhận được sự giản dị, dễ hiểu, đầy đủ, minh bạch đâu còn cần đến lời giải thích rông dài. Đa phần nhân loại, khi nghe lời dạy của Đức Phật, theo quy luật nhận thức ,họ đối chiếu lời dạy đó với kho “tri thức hiểu biết” đã được học hỏi, tích luỹ từ quá khứ của họ. Những tri thức hiểu biết của nhân loại đó nhuốm màu Vô minh, Thường kiến, Ngã kiến, ví như ngọt nằm trong đường và của đường, mặn nằm trong muối và của muối, ngon dở nằm trong thức ăn và của thức ăn, nóng nằm trong lửa, lạnh nằm trong nước đá, đất đá thì cứng, bánh đa thì giòn…Hiểu biết này là Ý thức nhị nguyên Tâm Vật hay Tâm biết Cảnh, trong đó Chủ thể biết là Tâm, là Bản ngã, đối tượng được biết là Cảnh, là Thế giới. Khi đối chiếu lời Phật dạy với kho ” tri thức hiểu biết” Vô minh Bản ngã và Thế giới đó, thì sẽ biến lời dạy của Phật ra thành Vô minh, giải thích sự giác ngộ của Phật là giác ngộ về Bản ngã ( Bản Tâm ) và Thế giới. Kho ” tri thức hiểu biết” của con người mỗi mỗi khác nhau, mỗi mỗi tông phái đều khác nhau nên mới phát sinh ra kho tàng kinh điển, chú giải, luận giải đồ sộ, mênh mông ,khổng lồ và đều gắn cho Phật nói. Trên thế gian này, không có một ai chịu nhiều sự xuyên tạc như Đức Phật. Lý do cũng thật dễ hiểu: chỉ duy nhất một mình Ngài, độc nhất vô nhị, không có người thứ hai, quán sát và tư duy trên Sự Thật mà chứng ngộ Chân lý. Còn nhân loại này cho dù có quán sát nhưng lại tư duy trên kho tri thức hiểu biết Vô minh, không đúng với sự thật và họ suy diễn sự giác ngộ của Ngài theo cái kho tri thức hiểu biết của họ. Họ có thể thao thao bất tuyệt về những điều cao siêu, kỳ diệu, về Thiền ,về Định, về Chân không diệu hữu, về Thế giới tương đối hay tuyệt đối …được người mê khoái trí, nhưng cái Sự thật trước mắt như: ngọt không nằm trong đường, mặn không nằm trong muối, ngon dở không nằm trong thức ăn, nóng không có trong lửa, lạnh không có trong nước đá… thì họ hoàn toàn không biết. Những điều cao siêu kỳ diệu, hoành tráng đó là do Vô minh mà tư duy ,suy diễn, tưởng tượng ra, người nghe không bao giờ ” đến để mà thấy” được, không thể kiểm chứng được, mà chỉ có “đến để mà tin” theo đức tin Tôn giáo, nó không phải là Chân lý, không phải là sự thật phổ quát, nhưng lại phù hợp với tâm Tham ái của con người, kích thích được Tham ái của nhân loại .Đặc biệt những tư tưởng đó, những thao thao bất tuyệt đó là do tư duy suy diễn tác thành, là lý luận suông, là ảo tưởng do Vô minh mà phát sinh, là lông rùa sừng thỏ, nên họ không có thể trình bày được cách thức,không thể trình bày được phương pháp thực hành để chứng ngộ và an trú được những điều ” cao siêu kỳ diệu” đó, họ chỉ dừng lại ở Thiền nói. Bốn mươi lăm năm thuyết pháp Đức Phật chỉ xoay quanh Khổ và Sự chấm dứt Khổ, hay chỉ xoay quanh Tham – Dục và Sự chấm dứt Tham – Dục ( Dục hỷ Dục lạc – Dục hỷ Hữu – Dục hỷ Niết bàn ) hay chỉ xoay quanh vấn đề Nội tâm, tức lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu và lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh, đều Vô thường, Vô ngã chứ không thuyết giảng về Chân Tâm không sinh không diệt hoặc Thế giới, hoặc những gì kỳ diệu, mầu nhiệm, cao siêu. Nhưng con người vì Vô minh che đậy, y chỉ vào hiểu biết đã được mặc định, những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới, nên đã vô tình xuyên tạc lời dạy của Phật. Ví như tất cả các bộ phái, các luận sư, các chú giải đều nói đến đối tượng của Tham ái là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, nghĩa là Thế giới vì hiểu biết mặc định của họ là những gì được thấy, được biết là Thế giới, nhưng Sự thật đối tượng của Tham ái là Cảm thọ,là Tâm chứ không phải là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Đức Phật đã thuyết rất rõ ràng trong Thập Nhị Nhân Duyên mà bộ phái nào cũng chấp nhận: Do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ … nghĩa là đối tượng của Ái là Cảm thọ chứ không phải Sắc Thanh Hương Vị xúc Pháp. Muốn chấm dứt Thiền nói, phải trở về với Duyên khởi, với Tứ Thánh Đế, trở về với sự tu tập Bát Chánh Đạo theo lộ trình Giới – Định – Tuệ mới có thể đoạn trừ Tham Sân Si, mới có thể chứng ngộ và an trú Khổ Diệt, an trú Niết Bàn được.
Đại Đức Nguyên Tuệ