HẠNH PHÚC CHÁNH ĐỊNH

HẠNH PHÚC CHÁNH ĐỊNH

Hạnh phúc Chánh định chính là Cảm giác vui và thoải mái ( mà thuật ngữ Phật học Hán Việt gọi là Hỷ Lạc ) khi đạt được Chánh định do Chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân. Khi không nhớ nghĩ về bất cứ điều gì mà chỉ nhớ nghĩ đến Tích cực chú tâm liên tục cảm giác toàn thân từ cảm giác này đến cảm giác khác thì lúc đó là Nhất tâm, là đã vào Chánh định, thân chứng các tầng thiền đã được mô tả trong các bản kinh Nikaya :

“Ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái Hỷ Lạc do Ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ. Diệt tầm diệt tứ chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái Hỷ Lạc do Định sanh với chú tâm không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly Hỷ trú Xả thân cảm Lạc thọ do Xả niệm lạc trú sanh, chứng và trú Tam thiền. Xả lạc, xả khổ, diệt từ hỷ ưu đã cảm thọ từ trước chứng và trú Tứ thiền, tâm thanh tịnh nhờ Xả”.

4 mức độ Hạnh phúc Chánh định

Hạnh phúc Chánh định gồm :

  • Sơ Thiền thì sẽ có hỷ lạc ( vui thoải mái ) do Ly dục sanh.
  • Nhị Thiền sẽ có hỷ lạc ( vui thoải mái ) do Định sanh.
  • Tam Thiền sẽ có Lạc ( thoải mái ) do Xả sanh.
  • Tứ Thiền sẽ có Hiện Tại Lạc Trú do tâm thanh tịnh.

Những ai thực hành chứng và trú được các tầng thiền này sẽ tự mình kinh nghiệm được 4 thứ Hạnh phúc vi diệu này nhưng không phải ai cũng Tuệ Tri được 4 loại Hạnh phúc do 4 tầng thiền khởi lên. Đó là Hạnh phúc Sơ thiền là do Ly dục sanh, Hạnh phúc Nhị thiền là do Định sanh, Hạnh phúc Tam thiền là do Xả sanh ( xả niệm lạc trú ), Hạnh phúc Tứ thiền là do tâm thanh tịnh.

Để Tuệ tri được 4 mức độ Hạnh phúc này phải thuần thục Chánh định, phải đạt được “Định như ý túc” có nghĩa là: Tuỳ theo ý muốn vị đó có thể chứng và trú sơ thiền, nhị thiền hay tam thiền hay tứ thiền với thời gian bao nhiêu tùy theo ý muốn. Và khi trú vững chắc các tầng thiền, sẽ hướng đến Tuệ tri về các loại Hạnh phúc này.

Sơ Thiền

*Sơ thiền phát sinh do chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân với hai loại chú tâm ( có tầm có tứ + không tầm không tứ ) sẽ tách cái Thấy ra khỏi cái Biết, dừng lại cái Thấy ( Chỉ ) không cho cái Biết khởi lên. Trạng thái tâm lúc đó chỉ có cái Thấy và các Đối tượng thực tại được thấy không có cái Biết và các Tư tưởng về đối tượng được thấy. Trạng thái chỉ có cái Thấy thuần túy mà không có cái Biết được gọi là Tỉnh giác, trạng thái tâm này không có các suy nghĩ, không có các tư tưởng, không có thái độ tham sân si, không có Dục hỷ với các Đối tượng thực tại. Trạng thái tâm này gọi là Ly dục, ly bất thiện pháp ( không có tư tưởng thiện ác, không có dục hỷ, tham muốn ). Và từ trạng thái tâm chỉ có cái Thấy thuần túy ( vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt ) không có cái Biết, không có tư tưởng, không có dục hỷ ( tham muốn ) gọi là Ly dục này sẽ phát sinh Hỷ Lạc ( cảm giác vui, thoải mái ) nên gọi là Hỷ Lạc do Ly dục sanh.

Nhị thiền

*Nhị thiền cũng do chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân mà phát sinh nhưng chỉ có một loại chú tâm duy nhất là chú tâm không tầm không tứ. Chính định nghĩa diệt tầm diệt tứ chứng và trú Nhị thiền đã phân biệt rõ Nhị thiền là phát triển tiếp nối của Sơ thiền bằng cách diệt chú tâm có tầm có tứ trong sơ thiền, chỉ còn lại chú tâm không tầm không tứ là thời điểm chuyển từ sơ thiền lên nhị thiền.

Đối với nhị thiền chỉ có một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ nên sự chú tâm liên tục này hoàn toàn tự động, liên tục khít khao từ cảm giác này đến cảm giác khác và chủ yếu là Cảm giác xúc chạm trên thân. Chính sự chú tâm tự động không tầm không tứ liên tục, khít khao này làm phát sinh hỷ lạc manh hơn sơ thiền rất nhiều và hỷ lạc này là do Định sanh là vì vậy.

Tam thiền

*Tam thiền cũng do chú tâm liên tục cảm giác toàn thân nhưng chỉ có một loại chú tâm không tầm không tứ và phát triển tiếp nối của Nhị thiền. Giai đoạn nhị thiền có hỷ lạc mạnh do sự chú tâm liên tục Cảm giác xúc chạm trên thân trong đó có Cảm giác thở vô, Cảm giác thở ra nhưng dần dà Cảm giác xúc chạm trên thân nhẹ dần, nhẹ dần, vi tế dần thì sự chú tâm Cảm giác trên thân đan xen với nhiều Cảm giác pháp trần xuất hiện trước mặt. Đến một lúc thì Cảm giác vui ( hỷ ) không còn nữa mà chỉ có Cảm giác thoải mái ( lạc ) nơi thân. Đó là lúc chuyển từ Nhị thiền lên Tam thiền gọi là “Ly hỷ trú xả”. Xả là một thuật ngữ Hán Việt có rất nhiều nghĩa theo các ngữ cảnh khác nhau. Xả trong trường hợp này là trạng thái tâm “không vui không buồn”.

Hạnh phúc của Tam thiền là Thân cảm lạc thọ do Xả niệm lạc trú sanh, nghĩa là Cảm giác thoải mái trên thân ( lạc ) không phải do Định sanh vì Cảm giác xúc chạm trên thân lúc này đã vi tế, nhỏ nhẹ chủ yếu có tính chất trung tính ( xả ) nên không gây ra lạc thọ, mà Lạc thọ này là do trạng thái tâm không vui không buồn ( xả) phát sinh nên Hán Việt dịch là “thân cảm lạc thọ do xả niệm lạc trú sanh”.

Tứ thiền

*Tứ thiền cũng do sự chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân nhưng với một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ. Tứ thiền là sự phát triển tiếp nối của tam thiền cho đến mức mà cảm giác xúc chạm trên thân rất nhỏ nhiệm, rất vi tế nên không phải là lạc thọ, khổ thọ mà các cảm giác xúc chạm ấy không lạc, không khổ, là trung tính hay Hán Việt gọi là xả thọ hay nói gọn là xả. Nghĩa là trên thân cảm giác xúc chạm trên thân nhỏ nhiệm vi tế nên hoàn toàn là trung tính ( xã ) nên nói theo Hán ngữ là “xả lạc xả khổ”. Nội tâm lúc đó bình thản, không vui không buồn ( xã ) nên nói theo Hán ngữ là “diệt trừ hỷ ưu đã cảm thọ”. Lúc đó trạng thái tâm chỉ có cái Thấy thuần túy và đối tượng được thấy chủ yếu là Cảm giác pháp trần, vắng bặt mọi tư tưởng nên nói “Tâm thanh tịnh nhờ xã”.

Lúc này hành giả cảm nhận “Hiện tại lạc trú”. Đây là cái từ được đặt ra để chỉ trạng thái tâm khi chứng và trú Tứ thiền. Đối với người chưa chứng và trú tứ thiền thì khi nghe vậy không ai hình dung ra nổi, bởi ngôn từ chỉ một sự việc nào đó và khi nghe ngôn từ đó họ sẽ hình dung ra sự việc. Đằng này nói tứ thiền có hiện tại lạc trú nhưng lại nói là không lạc không khổ, không buồn không vui thì không ai hình dung ra nổi nó là cái gì.

Phải hiểu là mọi ngôn từ của thế gian thì không thể nào diễn tả được cái hạnh phúc vi tế hiện tại lạc trú của tứ thiền. Từ HIỆN TẠI LẠC TRÚ được các bậc Thánh đặt ra chỉ dành riêng cho những ai đã chứng và trú trạng thái tứ thiền mới chấp nhận ngôn từ đó, diễn tả trạng thái đó thôi, không dành cho những ai chưa chứng tứ thiền.

2 loại Hạnh phúc

Cuộc đời có 2 thứ Hạnh phúc. Hạnh phúc thế gian xẩy ra trên lộ trình tâm Bát Tà đạo và Hạnh phúc xuất thế gian xẩy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh đạo. Loại Hạnh phúc thứ nhất, hạnh phúc thế gian thì ai ai cũng đã cảm nhận được nhưng loại Hạnh phúc thứ hai, hạnh phúc xuất thế gian thì chỉ rất ít người cảm nhận được.

* Loại hạnh phúc thứ nhất, hạnh phúc thế gian là CẢM GIÁC VUI, THOẢI MÁI khi được giàu có, ăn ngon mặc đẹp, khỏe mạnh, xinh đẹp, thành đạt nổi tiếng… Hạnh phúc đó phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, phải có được sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon xúc chạm êm ái, phải thành đạt, nổi tiếng, phải được ca ngợi tán thán, phải được yêu thương mới có hạnh phúc. Để có được hạnh phúc đó phải đánh đổi bằng khổ, phải chịu nhiều gian lao, nguy hiểm, cay đắng vùi dập…. Nhưng có được rồi thì lại nắm giữ không thể buông ra nên khi mất nó thì khổ vô cùng, nhưng cái khổ thường trực thuyên xuyên ức chế con người là sợ mất hạnh phúc đó. Hạnh phúc này phải đánh đổi bằng khổ, nắm giữ nó, sợ mất nó nên nên nó là Nguyên nhân phát sinh khổ. Vì thế Hạnh phúc này vui thì ít, khổ thì nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Hạnh phúc này đưa đến ràng buộc, hệ lụy KHÔNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT KHỔ mà chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác. Bậc Thánh gọi Hạnh phúc này là Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc.

* Loại hạnh phúc thứ hai, hạnh phúc xuất thế gian cũng là CẢM GIÁC VUI THOẢI MÁI phát sinh do Chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân mà có được, không phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, không phụ thuộc giàu nghèo, khỏe mạnh hay ốm đau, thành đạt hay không thành đạt… Hạnh phúc này có được không khó khăn không mệt nhọc, không phải đánh đổi bằng khổ, không đưa đến ràng buộc, hệ lụy. Hạnh phúc này song hành với KHỔ DIỆT, NIẾT BÀN. An trú Chánh định, an trú hạnh phúc này trong mọi tư thế, mọi việc làm thì không còn tìm cầu Hạnh phúc thế gian nữa. Bậc Thánh gọi loại hạnh phúc này là Thánh lạc, Chánh giác lạc, An tịnh lạc.

Thiền sư Nguyên Tuệ

Nguồn:

 

Để lại một bình luận