NIỆM LÀ GÌ, CÓ THẤT NIỆM KHÔNG ?

NIỆM LÀ GÌ

Trong diễn giảng của rất nhiều người có nói đến từ THẤT NIỆM với nội dung là khi tu tập Phật giáo mà Không Chánh niệm thì lúc đó là thất niệm. Hiểu đơn giản THẤT NIỆM theo họ nói là KHÔNG CÓ NIỆM. Vậy thực sự có thất niệm không, tức là lộ trình tâm đó không có Niệm không ?

Để hiểu đúng sự thật vấn đề này, trước tiên phải hiểu NIỆM là gì đã. Niệm là một thuật ngữ Phật học Hán Việt được đặt ra khi phiên dịch kinh điển từ ngôn ngữ Ấn độ sang ngôn ngữ Trung hoa.

Niệm là gì?

Niệm được định nghĩa trong các bộ kinh Nikaya là: Niệm là NHỚ LẠI những gì đã học từ trước. Theo định nghĩa gốc này nếu hiểu theo tiếng Việt thuần túy thì NIỆM là TRÍ NHỚ, nhớ lại những gì đã học từ trước. Và NIỆM hay TRÍ NHỚ là một tâm hành thuộc nhóm Hành trong 4 nhóm Thọ – Tưởng – Hành – Thức ( hay Thọ – Thấy – Hành – Biết ) và tâm hành Niệm ( Trí nhớ ), tâm hành Tư duy ( Suy nghĩ ), tâm Biết ( Ý thức ) là các quá trình Duyên khởi nối tiếp nhau ( Niệm – Tư duy – Biết ). Lộ trình tâm có cái Biết ý thức thì dứt khoát phải có Niệm, có Trí nhớ. Phải quan sát và tư duy kỹ càng để biết Tâm hành Niệm có HAI PHẦN :

1- Một là HÀNH VI của Niệm là Trí nhớ, là Nhớ lại hay Nhớ đến, là Tìm kiếm thông tin tương tự như Google.

2- Hai là NỘI DUNG của Niệm là Nhớ lại CÁI GÌ. Tùy theo nội dung của Niệm mà có thể chia làm 2 loại Niệm là Chánh niệm ( Trí nhớ Chánh ) và Tà niệm ( Trí nhớ Tà ).

2 Loại Niệm: Tà niệm và Chánh niệm

Tà niệm hay Trí nhớ Tà

* Tà niệm hay Trí nhớ Tà là Nhớ được những gì đã học nhưng những điều đã học đó ( tri thức, kinh nghiệm đó ) có nội dung là những HIỂU BIẾT KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT, là Vô minh, tà kiến, chấp ngã.

Duyên với Tà niệm sẽ phát sinh Tà tư duy, Duyên với Tà tư duy mà sẽ phát sinh cái Biết ( ý thức ) vô minh, tà kiến, chấp ngã. Duyên với cái Biết ý thức vô minh, tà kiến, chấp ngã sẽ phát sinh Tham Sân Si. Duyên với Tham Sân Si sẽ phát sinh sầu bi khổ não, sinh già bệnh chết không thể kể xiết.

Chánh niệm hay Trí nhớ Chánh

* Chánh niệm hay Trí nhớ Chánh là Nhớ lại những gì đã học nhưng những điều đã học đó là những HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT, là Minh, trí tuệ, Chánh kiến do Đức Phật khám phá và truyền dạy ( không phải do những người mạo danh Phật ). Đó là Tứ thánh đế và những gì liên quan tới Tứ thánh đế, là Bốn Sự Thật mà bậc Thánh đã giác ngộ.

Duyên với Chánh niệm sẽ phát sinh Chánh tư duy, Duyên với Chánh tư duy sẽ phát sinh cái Biết ý thức Chánh kiến, trí tuệ. Duyên với cái Biết ý thức Chánh kiến, trí tuệ sẽ khởi lên Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đây chính là lộ trình tâm Bát Chánh đạo và lộ trình tâm này không còn Nhân, không còn Duyên cho cái Biết vô minh, tà kiến, chấp ngã khởi lên, không còn Nhân, không còn Duyên cho Tham Sân Si, cho sầu bi khổ não, sinh già bệnh chết khởi lên. Nghĩa là toàn bộ Khổ uẩn chấm dứt ngay bây giờ và tại đây.

Nội dung Chánh niệm

Nội dung Chánh niệm hay Trí nhớ Chánh rất nhiều nhưng được chia làm bốn nhóm chính và thuật ngữ Phật học Hán Việt gọi là Tứ niệm xứ gồm :

– Chánh niệm về thân là : NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát thân nơi thân ( quán sát cảm giác xuất hiện nơi thân).

– Chánh niệm về thọ là : NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát thọ nơi thọ.

– Chánh niệm về tâm là : NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát tâm nơi tâm ( thọ tưởng hành thức hay thọ thấy hành biết )

– Chánh niệm về pháp là : NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát pháp nơi pháp ( Pháp mà Đức Phật thuyết giảng )

Phật học là một MÔN HỌC cũng giống như các môn học Toán học, Vật lý, Kỹ nghệ … mục đích là để SỐNG VỚI CÁC KIẾN THỨC NÀY để có được kết quả Hết Khổ Được Vui ngay bây giờ và tại đây. Việc HỌC VÀ HÀNH chỉ là RÈN LUYỆN TRÍ NHỚ để nhớ được những điều đã học và ứng dụng vào tình huống cụ thể một cách thuần thục.

Cũng y như vậy việc tu học Phật giáo cũng chỉ là RÈN LUYỆN TRÍ NHỚ CHÁNH hay CHÁNH NIỆM ( gồm bốn nhóm là Tứ niệm xứ ) cho thuần thục để khi đối diện vào tình huống cụ thế, Trí nhớ Chánh về tình huống sẽ khởi lên thuần thục, tương ứng.

Đương nhiên khi chưa thuần thục thì sẽ có lúc nhớ lúc quyên. Khi không có Chánh niệm thì lúc ấy không phải lộ trình tâm ấy không có Niệm như một số thường nói là THẤT NIỆM mà lúc đó vẫn có Niệm nhưng là TÀ NIỆM.

 

Thiền sư Nguyên Tuệ

Nguồn:

Để lại một bình luận